Báo cáo Tóm tắt về triển vọng kinh tế thế giới của quỹ tiền tệ quốc tế

Tăng trưởng toàn cầu đang giảm tốc do tác động của khủng hoảng tài chính (Chương 1). Suy giảm tăng trưởng xảy ra nhiều nhất ởcác nền kinh tếtiên tiến, đặc biệt là ởMỹ- nơi mà sự điều chỉnh của thị trường nhà đất tiếp tục làm cho những căng thẳng tài chính trởnên phức tạp thêm. Trong sốcác nền kinh tếtiên tiến khác, tăng trưởng ởkhu vực Tây Âu cũng chậm lại, mặc dù tình hình ởNhật Bản tỏra khả quan hơn. Cho đến nay, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu tác động ít hơn trước diễn biến thịtrường tài chính và tiếp tục tăng trưởng với nhịp độnhanh, dẫn đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, mặc dù ở một sốquốc gia, các hoạt động cũng đang bắt đầu chững lại. Cùng với diễn biến nêu trên, lạm phát chung (headline inflation) tăng lên ở nhiều nơi trên thếgiới, xuất phát từsựgia tăng mạnh của giá lương thực thực phẩm và năng lượng. Ởcác nền kinh tếtiên tiến, lạm phát cơbản cũng tăng cao trong những tháng gần đây, mặc dù tăng trưởng đang chậm lại. Trong các nền kinh tếmới nổi, lạm phát chung tăng rõ rệt hơn do cầu tăng trưởng mạnh, đồng thời năng lượng và đặc biệt là lương thực thực phẩm chiếm tỉtrọng cao hơn trong rổhàng hoá dịch vụtiêu dùng.

pdf14 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Tóm tắt về triển vọng kinh tế thế giới của quỹ tiền tệ quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 TÓM TẮT BÁO CÁO VỀ TRIỂN VỌNG KINH TẾ THẾ GIỚI CỦA QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ Môi trường kinh tế toàn cầu Tăng trưởng toàn cầu đang giảm tốc do tác động của khủng hoảng tài chính (Chương 1). Suy giảm tăng trưởng xảy ra nhiều nhất ở các nền kinh tế tiên tiến, đặc biệt là ở Mỹ - nơi mà sự điều chỉnh của thị trường nhà đất tiếp tục làm cho những căng thẳng tài chính trở nên phức tạp thêm. Trong số các nền kinh tế tiên tiến khác, tăng trưởng ở khu vực Tây Âu cũng chậm lại, mặc dù tình hình ở Nhật Bản tỏ ra khả quan hơn. Cho đến nay, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu tác động ít hơn trước diễn biến thị trường tài chính và tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ nhanh, dẫn đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, mặc dù ở một số quốc gia, các hoạt động cũng đang bắt đầu chững lại. Cùng với diễn biến nêu trên, lạm phát chung (headline inflation) tăng lên ở nhiều nơi trên thế giới, xuất phát từ sự gia tăng mạnh của giá lương thực thực phẩm và năng lượng. Ở các nền kinh tế tiên tiến, lạm phát cơ bản cũng tăng cao trong những tháng gần đây, mặc dù tăng trưởng đang chậm lại. Trong các nền kinh tế mới nổi, lạm phát chung tăng rõ rệt hơn do cầu tăng trưởng mạnh, đồng thời năng lượng và đặc biệt là lương thực thực phẩm chiếm tỉ trọng cao hơn trong rổ hàng hoá dịch vụ tiêu dùng. Thị trường hàng hoá truyền thống (commodity) tiếp tục tăng trưởng mạnh cho dù hoạt động kinh tế toàn cầu đang giảm tốc. Cầu tăng mạnh ở các nền kinh tế mới nổi, trong đó phần nhiều là do sự gia tăng trong tiêu dùng đối với các hàng hoá truyền thống trong những năm gần đây là động lực thúc đẩy giá cả tăng cao. Trong khi đó cầu liên quan đến nhiên liệu sinh học đã đẩy giá các mặt hàng lương thực chính tăng lên. Đồng thời, sự điều chỉnh từ phía cung trước diễn biến giá cả tăng cao lại có những độ trễ, đáng chú ý là dầu mỏ và mức tồn kho hàng hoá trên nhiều thị trường đã giảm xuống mức thấp, xét trong thời kỳ từ trung đến dài hạn (xem Phụ lục 1.2). Giá cả hàng hoá truyền thống tăng mạnh trong những năm gần đây dường như một phần cũng xuất phát từ các yếu tố tài chính, do các hàng hoá này ngày càng được sử dụng như những tài sản thay thế. Cú sốc tài chính xảy ra vào tháng 8/2007 (do trạng thái bình thường của thị trường nợ bất động sản dưới tiêu chuẩn ở Mỹ đã bị phá vỡ vì sự bùng nổ trong hoạt động nhà đất sau đó đã bị đảo ngược) đã nhanh chóng lan nhanh và bất ngờ làm tổn hại đến thị trường và các tổ chức vốn là cốt lõi của hệ thống tài chính. Cú sốc này đã làm giảm thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng, làm suy yếu nguồn vốn tự có của một số ngân hàng lớn, và thúc đẩy việc tái định giá rủi ro đối với một loạt các công cụ (được thảo luận chi tiết hơn ở Báo Cáo Ổn Định Tài Chính Toàn Cầu tháng 4/2008). Thanh khoản vẫn bị ảnh hưởng nghiêm trọng mặc dù có sự ứng phó tích cực của nhiều ngân hàng trung ương. Trong khi đó, quan ngại về rủi ro tín dụng gia tăng và lan rộng ra xa phạm vi khu vực nợ bất động sản dưới tiêu chuẩn. Giá cả cổ phiếu cũng giảm do ngày càng có nhiều dấu hiệu kinh tế yếu kém. Thị trường cổ phiếu và tiền tệ vẫn luôn biến động. Những xáo trộn nêu trên cùng với xu hướng giảm sự tìm kiếm hỗ trợ tài chính đang tác động tới cả kênh tín dụng ngân hàng và tín dụng phi ngân hàng ở các nền kinh tế tiên tiến. Bằng chứng là việc thắt chặt tín dụng đang diễn ra trên bình diện rộng – mặc dù chưa thể coi đây hoàn toàn là một sự suy giảm trong hoạt động tín dụng. Các chuẩn mực về cho vay của các ngân hàng ở Mỹ và Tây Âu đang được thắt chặt, việc phát hành chứng khoán cấu trúc giảm đi, và tỉ lệ cộng thêm vào các mức lãi 2 suất chuẩn áp dụng trong các khoản nợ đối với doanh nghiệp tăng mạnh. Tác động của các yếu tố này diễn ra mạnh ở Mỹ và đang khiến cho thị trường nhà đất có sự điều chỉnh sâu hơn. Ở Tây Âu, tác động ngoại lai chính diễn ra đối với các ngân hàng liên quan đến các chứng khoán dưới tiêu chuẩn của Mỹ và những gián đoạn trên thị trường liên ngân hàng, thị trường chứng khoán cấu trúc. Những căng thẳng gần đây trên thị trường tài chính cũng tác động đến các thị trường hối đoái. Tỉ giá thực có hiệu lực của đô la Mỹ đã giảm mạnh kể từ giữa năm 2007, do đầu tư nước ngoài vào các trái phiếu và cổ phiếu của Mỹ bị ảnh hưởng tiêu cực trước tình hình suy giảm lòng tin vào tính thanh khoản cũng như lợi nhuận có được từ các tài sản này, đồng thời cũng do việc cắt giảm lãi suất (của Fed) và triển vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ đang kém đi. Giá trị đồng đô la Mỹ suy giảm đã thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu ròng và đưa thâm hụt cán cân vãng lai của Mỹ xuống dưới mức 5% GDP vào quý 4 năm 2007, thấp hơn 1.5% so với mức thâm hụt cao nhất trong năm 2006. Đối tác chính song hành với sự suy giảm của đô la Mỹ chính là sự lên giá của đồng Euro, Yên và các đồng tiền khác dưới chế độ tỉ giá thả nổi như: Đô la Canada và một số đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, một số quốc gia có cán cân vãng lai thặng dư lớn, trong đó đáng chú ý là Trung Quốc và các nước xuất khẩu dầu mỏ ở Trung Đông, nhưng sự biến động tỉ giá của các nước này (so với đô la Mỹ) lại tỏ ra ít rõ ràng hơn. So với những căng thẳng của thị trường tài chính toàn cầu thời kỳ trước đây, ảnh hưởng ngoại lai trực tiếp của những cẳng thẳng gần đây đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển là ít rõ ràng hơn, mặc dù trong những tháng gần đây luồng vốn vào đã bình lặng hơn và hoạt động phát hành cũng giảm. Nhiều quốc gia phụ thuộc quá lớn vào luồng vốn vay nước ngoài ngắn hạn, nên bị tác động nhiều hơn. Ảnh hưởng ngoại lai của sự suy giảm tăng trưởng ở các nền kinh tế tiên tiến đối với thương mại là hạn chế, song rõ nét hơn ở những nền kinh tế có trao đổi thương mại nhiều với Mỹ. Do vậy, nhìn chung các nền kinh tế mới nổi và nền kinh tế phát triển tiếp tục có sự tăng trưởng khá, trong đó nhiều quốc gia vẫn đang phải đối mặt với tỉ lệ lạm phát gia tăng do giá lương thực thực phẩm, năng lượng và cầu nội địa tăng mạnh. Trụ cột để các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển giữ được nhịp độ tăng trưởng là quá trình hội nhập ngày càng tăng của các nền kinh tế này với nền kinh tế toàn cầu, cũng như giá cả nhiều hàng hoá truyền thống hiện đang gia tăng mạnh mẽ. Các yếu tố này đã thúc đẩy, giúp cho hoạt động xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước tại các quốc gia xuất khẩu hàng hoá truyền thống đạt được những kết qủa tốt hơn so với những lần tăng giá trước đó. Như được phân tích tại Chương 5, các nhà xuất khẩu những mặt hàng truyền thống đã đạt được những tiến triển trong việc đa dạng hoá chủng loại hàng xuất khẩu của mình, bao gồm cả việc tăng cường xuất khẩu hàng hóa chế tạo, đồng thời tỉ trọng thương mại giữa các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đã tăng lên. Khuôn khổ chính sách kinh tế vĩ mô, môi trường thể chế được cải thiện và tăng cường cũng là những yếu tố quan trọng để hỗ trợ cho việc đạt được các điều kiện thuận lợi nêu trên. Do đó, tình hình tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đã trở nên ít phụ thuộc hơn vào chu kỳ kinh doanh của các nền kinh tế tiên tiến, mặc dù rõ ràng là không thể loại trừ được các ảnh hưởng ngoại lai. Triển vọng và rủi ro Tăng trưởng toàn cầu được dự báo sẽ chững lại ở con số 3.7% trong năm 2008, thấp hơn 0.5 điểm phần trăm so với thời điểm phát hành Bản Cập Nhật Triển Vọng Kinh Tế Thế Giới hồi tháng 1, và thấp hơn 1.25 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng của năm 2007. Hơn nữa, tăng trưởng được dự báo là nhìn chung sẽ không thay đổi trong năm 2009. Sự khác biệt của diễn biến tăng trưởng ở các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi được dự đoán sẽ tiếp tục diễn ra, trong đó tăng trưởng ở các nền kinh tế tiên tiến nhìn chung được dự đoán sẽ giảm xuống dưới mức tiềm năng. Nền kinh 3 tế Mỹ trong năm 2008 sẽ tiếp tục lâm vào suy thoái nhẹ do chu kỳ tự củng cố lẫn nhau của thị trường tài chính và thị trường nhà đất, trước khi bắt đầu hồi phục nhẹ vào năm 2009 khi các vấn đề về bảng cân đối tài khoản dần được giải quyết (Chương 2). Tỉ lệ tăng trưởng ở Tây Âu cũng được dự báo là sẽ chững lại ở dưới mức tiềm năng, do ảnh hưởng ngoại lai của hoạt động thương mại, thắt chặt tài chính và chu kỳ suy thoái của thị trường nhà đất ở một số nước. Trong khi đó, tăng trưởng ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển được dự đoán là sẽ chậm lại chút ít, nhưng vẫn ở mức cao, cả trong năm 2008 và 2009. Tăng trưởng chững lại xuất phát từ những nỗ lực ngăn chặn tăng trưởng nóng ở một số nước, ảnh hưởng ngoại lai về tài chính và giá cả các hàng hoá truyền thống giảm bớt sự gia tăng. Cán cân tổng thể về rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng toàn cầu trong ngắn hạn vẫn nghiêng về đà suy giảm. Cán bộ của IMF dự báo có 25% khả năng tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm xuống mức 3% hoặc thấp hơn trong năm 2008 và 2009, điều này tương đồng với một cuộc suy thoái toàn cầu. Rủi ro lớn nhất xuất phát từ các sự kiện hiện vẫn tiếp tục diễn ra trên thị trường tài chính, đặc biệt là tiềm ẩn những thiệt hại từ các khoản tín dụng cấu trúc liên quan đến thị trường nợ bất động sản dưới tiêu chuẩn và các khu vực khác, từ đó huỷ hoại nghiêm trọng đến bảng cân đối tài khoản của hệ thống tài chính và khiến cho quá trình siết chặt tín dụng hiện tại chuyển thành suy giảm tín dụng. Tác động tương hỗ của các cú sốc tài chính với cầu nội địa, đặc biệt là qua kênh thị trường nhà đất vẫn là quan ngại của nước Mỹ, và sau đó là đến Tây Âu cùng với các nền kinh tế tiên tiến khác. Cầu nội địa ở các nền kinh tế mới nổi được dự báo là có triển vọng tăng trưởng, nhưng các nền kinh tế này vẫn dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng ngoại lai về thương mại và tài chính. Đồng thời, các rủi ro liên quan đến áp lực lạm phát cho đến nay tăng lên, do giá cả tăng mạnh trên thị trường hàng hoá truyền thống và lạm phát cơ bản đang tăng. Các vấn đề về chính sách Các nhà hoạch định chính sách trên thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức. Những thách thức này biến động rất nhanh và mặc dù ở mỗi quốc gia một khác, nhưng trong thế giới mà tính đa cực ngày càng tăng, thì cần thiết phải ứng phó với chúng trên bình diện rộng và tính đến những tác động tương hỗ qua biên giới giữa các nước. Trong các nền kinh tế tiên tiến, nhiệm vụ khó khăn là xử lý những xáo trộn trên thị trường tài chính và ứng phó với rủi ro suy giảm tăng trưởng. Tuy nhiên, sự lựa chọn về chính sách cũng cần tính đến những rủi ro về lạm phát và những quan ngại về dài hạn. Nhiều nền kinh tế mới nổi và đang phát triển vẫn phải đối mặt với thách thức về việc đảm bảo để tăng trưởng kinh tế hiện tại ở mức cao mà không gây ra áp lực gia tăng lạm phát hoặc khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương. Song các nền kinh tế này cần sẵn sàng ứng phó với diễn biến tăng trưởng chậm lại, cũng như các điều kiện tài trợ khó khăn hơn nếu môi trường bên ngoài xấu đi nhiều. Các nền kinh tế tiên tiến Các nhà hoạch định chính sách tiền tệ ở các nền kinh tế tiên tiến đứng trước yêu cầu khó khăn của luật ngân hàng đó là: loại bỏ rủi ro suy giảm tăng trưởng và đảm bảo không để lạm phát gia tăng. Ở Mỹ, xu hướng rủi ro suy giảm tăng trưởng sản lượng và những bất chắc (không chắc chắn) về phạm vi, thời gian và tác động của những xáo trộn tài chính cũng như tình hình trên thị trường lao động xấu đi, đã biện minh cho hành động của Fed về các đợt cắt giảm sâu đối với lãi suất và tiếp tục quan điểm chính sách tiền tệ nới lỏng cho đến khi nền kinh tế có được sự ổn định vững chắc. Trong khu vực đồng euro, mặc dù tình hình lạm phát gần đây là khá cao, nhưng trong bối cảnh khó khăn gia tăng, nên tăng trưởng có thể sẽ giảm trở lại mức 2% trong năm 2009. Theo đó, Ngân hàng Trung ương Châu âu có thể điều hành theo quan điểm nới lỏng tiền tệ. Ở Nhật Bản, có những lý do để nước này tiếp tục duy trì sự ổn định của lãi suất, mặc dù nếu làm như vậy thì khi có những khó khăn lớn đối với 4 triển vọng tăng trưởng, khả năng giảm lãi suất sẽ bị hạn chế. Ngoài những quan ngại tức thời nêu trên, diễn biến tài chính gần đây đã tiếp tục dấy lên cuộc tranh luận về mức độ mà các ngân hàng trung ương phải xem xét đối với giá cả tài sản khi điều hành chính sách tiền tệ. Về vấn đề này, Chương 3 xem xét mối liên hệ giữa chu kỳ thị trường nhà đất và chính sách tiền tệ. Kết luận được rút ra là: kinh nghiệm gần đây dường như ủng hộ cho quan điểm rằng các quyết định chính sách tiền tệ nên tập trung nhiều hơn vào sự biến động của giá nhà đất, đặc biệt là ở những nền kinh tế mà thị trường nợ bất động sản phát triển hơn và “các tác động thúc đẩy của yếu tố tài chính” trở nên rõ nét hơn. Điều này có thể được thực hiện trong một khuôn khổ quản lý rủi ro đối với chính sách tiền tệ bằng việc “dựa vào gió” (“leaning against the wind), tức là phản ứng của chính sách tiền tệ cũng căn cứ vào diễn biến giá cả nhà đất biến động nhanh hoặc khi nó vượt ra ngoài trạng thái bình thường. Mặc dù vậy, sẽ là không khả thi hoặc cần thiết khi chính sách tiền tệ hướng vào những mục tiêu cụ thể về giá nhà đất. Chính sách tài khoá có thể đóng vai trò hữu ích trong việc bình ổn ở các nền kinh tế tiên tiến trong trường hợp tăng trưởng kinh tế theo chiều hướng đi xuống. Mặc dù vậy, chính sách tài khoá không nên làm phương hại đến các nỗ lực củng cố tình hình tài khoá trong thời kỳ trung hạn. Trước hết, các chính sách và chương trình tự bình ổn, có khả năng hỗ trợ tài khoá kịp thời, mà không ảnh hưởng xấu đến tiến trình hướng tới các mục tiêu trung hạn. Thêm vào đó, có những lý do để biện minh cho quan điểm về vai trò đòn bẩy tăng trưởng của chính sách tài khoá ở một số quốc gia, xuất phát từ những quan ngại hiện tại về áp lực làm suy thoái kinh tế, đồng thời quan ngại rằng những xáo trộn về tài chính có thể làm suy yếu cơ chế truyền dẫn bình thường của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, bất kỳ chính sách khuyến khích tăng trưởng nào cũng cần được thực hiện kịp thời, đảm bảo hướng đúng mục tiêu và nhanh chóng kết thúc. Ở Mỹ, nơi mà các chính sách và chương trình tự bình ổn có quy mô khá nhỏ, thì một đạo luật gần đây về việc sử dụng đòn bẩy kinh tế trong những thời kỳ căng thẳng dường như đã thể hiện đầy đủ tính thuyết phục, nhưng mức độ hỗ trợ bổ sung của khu vực công cho các thị trường tài chính và nhà đất cũng cần được làm rõ. Trong khu vực đồng euro, nơi mà các chính sách, chương trình tự bình ổn được triển khai rộng rãi hơn, thì chúng cần được thực hiện đầy đủ vai trò bình ổn trước những diễn biến thâm hụt để có được những bước tiến vững chắc hướng đến các mục tiêu trung hạn. Các quốc gia, nơi mà khả năng thực hiện các mục tiêu trung hạn nằm trong tầm tay của mình, thì có thể áp dụng thêm một số đòn bẩy kinh tế trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, đối với những quốc gia khác, thì ngay cả khả năng triển khai các chính sách và chương trình tự bình ổn cũng bị hạn chế do mức độ nợ của khu vực công cao, đồng thời các kế hoạch điều chỉnh hiện tại chưa đủ để đạt được tính bền vững trong trung hạn. Ở Nhật Bản, nợ ròng của khu vực công được dự báo là vẫn ở mức cao, mặc dù quốc gia này đã có những nỗ lực củng cố trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh suy giảm tăng trưởng kinh tế, có thể triển khai các chính sách và chương trình tự bình ổn, tuy nhiên tác động của chúng đến cầu nội địa là nhỏ, trong khi cũng không có nhiều cơ hội cho việc thực hiện các hành động mang tính tự quyết. Các nhà hoạch định chính sách cần tiếp tục với những nỗ lực cao để giải quyết những xáo trộn trên thị trường tài chính, tránh xảy ra khủng hoảng thực sự về lòng tin hoặc suy giảm trong hoạt động tín dụng. Những ưu tiên tức thời (được nêu trong bản Báo Cáo Ổn Định Tài Chính Toàn Cầu vào tháng 4/2008) sẽ có tác dụng tăng cường tính hiệu quả của về vốn và tài chính của các tổ chức, đồng thời làm giảm căng thẳng về thanh khoản. Các sáng kiến trợ giúp thị trường nhà đất ở Mỹ, bao gồm cả khả năng sử dụng bảng cân đối tài khoản của khu vực công, có thể giúp làm giảm những bất chắc về sự tiến triển của hệ thống tài chính, mặc dù cũng cần thận trọng để tránh xảy ra những rủi ro đạo đức không đáng có. Những cải cách mang tính dài hạn bao gồm việc cải thiện các quy định đối với thị trường nợ bất động sản, tăng cường tính độc lập của các cơ quan xếp hạng, mở rộng 5 hoạt động giám sát, đẩy mạnh khuôn khổ hợp tác trong giám sát và cải thiện cơ chế giải quyết khủng hoảng. Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển phải đối mặt với thách thức kiểm soát lạm phát, đồng thời phải tỉnh táo trước rủi ro suy giảm tăng trưởng do ảnh hưởng từ các nền kinh tế tiên tiến cùng với những căng thẳng trên thị trường tài chính. Ở một số quốc gia, chính sách tiền tệ có thể cần được thắt chặt thêm để giữ lạm phát trong tầm kiểm soát. Với chế độ tỉ giá hối đoái linh hoạt, khi đồng tiền lên giá sẽ có xu hướng trợ giúp cho việc thắt chặt tiền tệ. Ở các quốc gia có sự quản lý nhiều đối với tỉ giá giữa bản tệ với đô la Mỹ, thì có ít khả năng ứng phó, bởi lãi suất gia tăng sẽ khuyến khích luồng vốn chảy nhiều vào trong nước. Nền kinh tế đa dạng của Trung Quốc và một số quốc gia khác sẽ được lợi từ việc chuyển sang chế độ tỉ giá linh hoạt hơn do chính sách tiền tệ có khả năng và tầm ảnh hưởng rộng hơn. Đối với nhiều quốc gia xuất khẩu dầu mỏ ở khu vực Trung Đông, việc neo tỉ giá vào đồng đô la Mỹ đã gây khó khăn cho thực thi chính sách tiền tệ; và điều quan trọng là hoạt động chi tiêu tài khoá gia cần được xác định rõ để phù hợp với diễn biến mang tính chu kỳ của các nền kinh tế này, đồng thời cần ưu tiên cho các hoạt động chi tiêu nhằm loại bỏ những nút cổ chai về cung trong nền kinh tế. Các chính sách về tài khoá và tài chính cũng có thể đóng vai trò hữu ích trong việc ngăn chặn tăng trưởng nóng và các vấn đề liên quan. Việc hạn chế chi tiêu có thể giúp điều hoà cầu nội địa, giảm yêu cầu thắt chặt tiền tệ và làm giảm áp lực từ các luồng vốn vào ngắn hạn. Việc giám sát tài chính một cách thận trọng – thúc đẩy thắt chặt các chuẩn mực cho vay một cách hợp lý và tăng cường quản lý rủi ro tại các tổ chức tài chính trong nước – có thể mang lại kết quả tốt trên cả phương diện điều hoà áp lực tổng cầu tăng do tăng trưởng tín dụng nhanh và giảm khả năng dễ bị tổn thương của bảng cân đối tài khoản. Đồng thời, các nhà hoạch định chính sách cũng cần sẵn sàng ứng phó với những tác động khắc nghiệt hơn từ môi trường bên ngoài. Đây là những tác động có thể ảnh hưởng xấu đến thương mại và cản trở lưu chuyển của luồng vốn vào. Ở nhiều quốc gia, khuôn khổ chính sách và bảng cân đối tài khoản của khu vực tài chính được tăng cường sẽ tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ và tài khoá được sử dụng nhiều hơn so với trước đây trong việc điều hoà những thay đổi mang tính chu kỳ của nền kinh tế. Ở Trung Quốc, các yếu tố nêu trên đã được củng cố trong những năm gần đây, bởi vậy chúng tạo nhiều điều kiện để chính sách tài khoá có thể hỗ trợ cho nền kinh tế, chẳng hạn như bằng việc tăng cường các kế hoạch đầu tư công và đẩy mạnh tiến trình cải cách mạng lưới an sinh xã hội, y tế và giáo dục. Ở nhiều nước châu Mỹ La tinh, khuôn khổ lạm phát mục tiêu được thiết lập tốt sẽ là cơ sở để nới lỏng tiền tệ khi có sự suy giảm trong hoạt động của nền kinh tế, hoặc khi áp lực lạm phát đã mất đi. Các chính sách và chương trình tự bình ổn cũng có thể được vận hành, mặc dù sẽ có ít khả năng để sử dụng các đòn bẩy tài khoá do nợ công của các quốc gia này vẫ