Bảo tồn và phát huy tri thức dân gian nghề làm chõ xôi truyền thống của người Thái (Sơn La)

Tóm tắt Chõ đồ xôi là sản phẩm của nghề thủ công truyền thống, nghề có giá trị văn hóa - xã hội tộc người, được người dân gìn giữ thông qua quá trình lao động sản xuất, trong đó chõ đồ xôi bằng gỗ của đồng bào dân tộc Thái được biết đến nhiều hơn cả. Nghề làm chõ xôi ở xã Chiềng Kheo, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La hiện nay được nhân dân trong vùng và một số vùng lân cận ưa chuộng. Nghề tồn tại và duy trì không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống thường ngày mà còn do nhu cầu nối tiếp văn hóa truyền thống của cộng đồng, bởi sản phẩm của nghề thúc đẩy việc bảo tồn tri thức dân gian nghề và gìn giữ những giá trị cốt lõi của văn hóa Thái. Bài viết nghiên cứu các tri thức dân gian của nghề thủ công truyền thống và quy trình làm chõ xôi bằng gỗ, từ đó đưa ra một số giải pháp bảo tồn, phát triển nghề và tri thức dân gian nghề, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Thái.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 147 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo tồn và phát huy tri thức dân gian nghề làm chõ xôi truyền thống của người Thái (Sơn La), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43Số 26 - Tháng 12 - 2018 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY TRI THỨC DÂN GIAN NGHỀ LÀM CHÕ XÔI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI THÁI (SƠN LA) LÊ VĂN MINH, LÒ NGỌC DIỆP Tóm tắt Chõ đồ xôi là sản phẩm của nghề thủ công truyền thống, nghề có giá trị văn hóa - xã hội tộc người, được người dân gìn giữ thông qua quá trình lao động sản xuất, trong đó chõ đồ xôi bằng gỗ của đồng bào dân tộc Thái được biết đến nhiều hơn cả. Nghề làm chõ xôi ở xã Chiềng Kheo, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La hiện nay được nhân dân trong vùng và một số vùng lân cận ưa chuộng. Nghề tồn tại và duy trì không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống thường ngày mà còn do nhu cầu nối tiếp văn hóa truyền thống của cộng đồng, bởi sản phẩm của nghề thúc đẩy việc bảo tồn tri thức dân gian nghề và gìn giữ những giá trị cốt lõi của văn hóa Thái. Bài viết nghiên cứu các tri thức dân gian của nghề thủ công truyền thống và quy trình làm chõ xôi bằng gỗ, từ đó đưa ra một số giải pháp bảo tồn, phát triển nghề và tri thức dân gian nghề, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Thái. Từ khóa: Nghề thủ công truyền thống, tri thức dân gian, chõ đồ xôi, Chiềng Kheo, dân tộc Thái Abstract Steamers for cooking sticky-rice are the products of traditional handicrafts, which have cultural and social values and preserved by the people through the production process of which the wooden sticky rice steamers of the Thai people is better known. Making sticky-rice steamer in Chieng Kheo commune, Mai Son district, Son La province is favoured by people in the region and nearby areas. The handicraft has survived and maintained not only to meet the daily life needs but also because of the need of continuing community’s traditional culture as the product of the handicraft promotes with conserving folklore handicraft knowledge and maintenance of Thai’s core cultural value. The article studies folklore handicraft knowledge and processes of making wooden steamers and suggests solutions to preserving and developing this traditional handicraft and folklore handicraft knowledge, contributing to preserving the Thai cultural identity. Keywords: Traditional handicrafts, folklore knowledge, steamer for cooking sticky-rice, Chieng Kheo, Thai ethnic minority Đặt vấn đề Chiềng Kheo là xã khu vực III của tỉnh Sơn La, cách trung tâm huyện Mai Sơn 35km, nằm dọc theo trục đường Quốc lộ 4G Sơn La - Sông Mã. Phía bắc giáp với xã Chiềng Mai; phía đông giáp xã Chiềng Ve; phía nam giáp với xã Nà Ớt; phía tây giáp xã Chiềng Dong và xã Phiêng Cằm. “Năm 2017 xã có tổng diện tích tự nhiên là 2.747,07ha, có 9 bản và 3 dân tộc cùng sinh sống, tổng số hộ trong toàn xã là 647 hộ (dân tộc Thái 577 hộ chiếm 89%; dân tộc Mông 64 hộ - 9%; dân tộc Kinh 6 hộ - 0,092%); tổng số nhân khẩu 2.882 người (dân tộc Thái 2.516 người chiếm 87%; dân tộc Mông 346 người - 12% và dân tộc Kinh 20 người - 0,7%). Nhân dân trong vùng chủ yếu sản xuất nông nghiệp chiếm 94%, kinh doanh dịch vụ nhỏ lẻ 6% tổng dân số toàn xã” (8, tr.1). Người Thái chiếm số đông tại xã Chiềng Kheo, vì thế, văn hóa của cộng đồng người Thái được thể hiện ở mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn từ lễ hội, tập quán tín ngưỡng tới văn hóa ẩm thực, trang phục, nhà ở, nghề thủ công,... trong đó có nghề làm chõ xôi bằng phương pháp thủ công truyền thống phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người. Chõ xôi tiếng Thái gọi là hạy khẩu. Nghề làm chõ có từ lâu đời do tập quán lấy xôi (cơm nếp) làm thức ăn chủ yếu, “gạo nếp là lương thực ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm bỏ vào chõ” (1, tr.157). Nghề mang tính cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn, vận dụng tri thức dân gian dựa vào nguồn Số 26 - Tháng 12 - 201844 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA tự nhiên của cộng đồng Thái. Kinh nghiệm làm chõ xôi được đúc kết tạo ra sản phẩm được cộng đồng đón nhận và sử dụng, là sản phẩm không thể thiếu trong mỗi gia đình người Thái. 1. Nghề làm chõ xôi truyền thống trong đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Thái 1.1. Vị trí, vai trò của nghề làm chõ xôi truyền thống Nghề làm chõ chỉ được tiến hành vào thời gian giao mùa, đợi thu hoạch, hoặc thời gian rảnh rỗi. Người thợ chính thường là những người cao tuổi không tham gia sản xuất chính mà kết hợp việc làm chõ với những việc phụ khác như chăn trâu, bò, chăm sóc ao cá,... Tuy nhiên, sản phẩm của nghề không chỉ đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong đời sống hàng ngày mà còn là động lực, đòn bẩy để bảo tồn những giá trị văn hóa tộc người đặc sắc của dân tộc Thái. Trong văn hóa ẩm thực Thái - tộc người sử dụng cơm nếp là chủ yếu, thì chõ gỗ đồ xôi có vị trí rất quan trọng, chõ gỗ làm cho chất lượng của xôi thêm giá trị trong bữa ăn hàng ngày. Người Thái có thói quen chế biến món ăn bằng cách xôi chín hầu hết các loại lương thực, thực phẩm: gạo, rau. củ, quả,... Do vậy, chõ gỗ dùng để chế biến món ăn bằng phương pháp đồ, hấp (xôi) là vật dụng không thể thiếu trong đời sống của đồng bào Thái. Nghề làm chõ với nhiều giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu cho cộng đồng người Thái mà các sản phẩm công nghiệp khác không có được. Sản phẩm được làm thủ công từng chiếc một, mặc dù có cùng kiểu dáng kích thước và cùng một người thợ làm ra nhưng các sản phẩm vẫn không thể giống nhau hoàn toàn. Đây là điểm khác biệt mang tính độc đáo so với các sản phẩm sản xuất theo dây chuyền, máy móc. Nguyên liệu có xuất xứ trong tự nhiên như: gỗ, tre, nứa. Bằng tri thức kinh nghiệm tích lũy được qua quá trình sống, người thợ đã tạo ra các sản phẩm từ đôi bàn tay khéo léo phục vụ mục đích nhân văn trong đời sống của cộng đồng. Sản phẩm của nghề luôn là đứa con tinh thần của người thợ qua quá trình sản xuất, tạo tác từ các vật liệu thông thường, quen thuộc thể hiện đặc điểm vùng miền trong sản phẩm thủ công. Hiện nay, chõ xôi dần trở thành hàng hóa, trao đổi để góp phần tăng thu nhập và tạo việc làm đơn thuần mà trong đó chứa đựng cả giá trị văn hóa tộc người tại Sơn La. Không chỉ có vậy, chõ còn có vị trí quan trọng trong các tri thức về tín ngưỡng dân gian, khi đã trở thành biểu tượng trong tiềm thức thì khó có thể thay đổi hình ảnh chõ xôi bằng các hình thức khác được. Trước đây, khi nền kinh tế chưa phát triển, cuộc sống tự cung tự cấp đã nảy sinh những sản phẩm mà nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu, đảm bảo miếng cơm hàng ngày của cộng đồng người Thái sống ở ven sông suối vùng Sơn La. Ngày nay, bộ mặt thôn bản đang thay đổi nhanh chóng, một vài nơi thay đổi tới mức biến dạng so với quá khứ truyền thống. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là nạn phá rừng bởi rừng vốn được coi là cội nguồn của đời sống tâm linh đang bị tàn phá ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn nguyên liệu gỗ nói riêng và các giá trị văn hóa liên quan đến rừng nói chung. Nguồn nguyên liệu phân bố rải rác, các thế hệ kế cận tiếp thu, học tập nghề không nhiều trong khi đó các sản phẩm truyền thống hiện nay đã bị mất dần vị thế bởi lớp trẻ với tư tưởng sống hiện đại, phóng khoáng hơn. Tuy vậy, nghề làm chõ đồ xôi bằng gỗ của người Thái vẫn là một nét văn hóa truyền thống đặc sắc, chưa bị mai một, lai tạp. 1.2. Giá trị của nghề làm chõ xôi truyền thống 1.2.1. Giá trị kinh tế Theo nghiên cứu, tìm hiểu của chúng tôi, trên địa bàn xã Chiềng Kheo hiện nay có 4 hộ gia đình tham gia làm chõ xôi, tạo thu nhập và giải quyết việc làm cho các thành viên trong gia đình mỗi lúc rảnh rỗi. Tại gia đình ông Lò Văn Pọm, bản Nà Viền, xã Chiềng Kheo, nghề làm chõ xôi đã tồn tại, duy trì hàng chục năm nay, thu hút hàng chục lao động trong gia đình. Khi làm chõ, mỗi người phụ trách một khâu, một mảng việc, phụ nữ giúp những công việc nhẹ như phơi các phôi thừa để làm chất đốt hoặc tham gia mua bán trao đổi sản phẩm,... còn việc tạo hình mang tính quyết định đến chất lượng sản phẩm thì cần đôi tay khỏe mạnh và khéo léo của đàn ông. Theo ông Pọm, 45Số 26 - Tháng 12 - 2018 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ sản phẩm chõ sau khi làm xong được phân phối chủ yếu tại địa phương, các xã lân cận, thành phố Sơn La hoặc người Lào sang gom mang về nước phân phối. Mỗi chiếc chõ làm bằng gỗ mạy sọ hoàn thiện được bán tại gia đình từ 100.000 - 250.000 VNĐ, giá cả cũng tùy thuộc vào kích thước của sản phẩm, nếu chõ to thì giá thành cao còn nhỏ hơn thì giá thành thấp hơn. Để hoàn thiện một chiếc chõ cần thời gian là 2 ngày, lao động lúc rảnh rỗi, với một sản phẩm như vậy trừ các khoản chi phí như mua nguyên liệu, công vận chuyển thì người thợ thu được 60% tiền bán chõ. Tuy thu nhập đem lại chưa cao nhưng đã góp phần giải quyết việc làm tại chỗ cho các hộ tham gia sản xuất đảm bảo thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chõ xôi có 2 loại, bằng gỗ và bằng tre, với hai nguồn cung cấp chính: một là chõ bằng gỗ của đồng bào Thái xã Chiềng Kheo, được mua bán, trao đổi tại chỗ hoặc chuyển tới bán tại các chợ trong tỉnh; hai là chõ được đan bằng tre, nứa của các nơi khác. Tuy nhiên, người dân ưa chuộng loại chõ được làm bằng gỗ mạy sọ của người Thái xã Chiềng Kheo hơn bởi có độ bền cao, không nứt,... đặc biệt sử dụng chõ bằng gỗ mạy sọ là thói quen từ lâu đời trong cộng đồng, một thói quen mang tính văn hóa mà tộc người vẫn duy trì. Còn chõ đan bằng tre làm dễ hơn, nhanh hơn, nguyên liệu dễ kiếm hơn bởi nguyên liệu gỗ không phải địa phương nào cũng có. Tuy nhiên, chõ đan bằng tre, nứa khi đồ, xôi cơm và các loại thức ăn không thơm, hơn nữa chõ dễ bị mối mọt, các thanh đan nhanh mòn, mủn, độ bền thấp. 1.2.2. Giá trị tín ngưỡng, tâm linh Theo quan niệm của người Thái xã Chiềng Kheo, lên nhà mới là việc trọng đại không chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình mà còn mang tính cộng đồng cao. Lên nhà mới, đồ vật được gia chủ chuyển vào nhà đầu tiên là chiếc chõ xôi bằng gỗ tượng trưng cho sự no đủ, may mắn, là vật dụng để làm chín đồ ăn, cung cấp và tái tạo sức khỏe, sản sinh sức lao động cho con người. Mang chõ vào để xôi bữa cơm đầu tiên trên chính gian bếp của gia đình, cơm được xôi trên chõ dùng để làm lễ vật dâng cúng vào nhà mới và chia cho mọi người trong bản đến làm giúp gia đình tới nơi ở mới. Trong tang ma, người Thái xã Chiềng Kheo quan niệm người chết cũng được chia các đồ vật trong nhà bởi công sức và đóng góp của người đó khi còn sống với gia đình, khi chết cần mang theo để tiếp tục cuộc sống ở mường trời. Khi nhà có người chết hoặc làm lễ cúng (panh khuôn) cho các thành viên trong gia đình, lúc khấn chia các đồ vật, bàn giao các vật dụng trong nhà thì chiếc chõ xôi được nhắc tới đầu tiên, sau đó mới đến các đồ vật khác. Người Thái quan niệm người chết về với tổ tiên, đi đường cần chiếc chõ để nấu ăn trong quãng đường về mường trời, bởi nó tượng trưng cho thần bếp, ấm no. Ngoài chức năng sử dụng, chõ xôi còn có tác dụng để trừ tà, chống ma. Trong nhà có người ốm, các đồ vật gồm chiếc chõ xôi, lưới xúc cá, đòn gánh được để ở chân giường vào các buổi tối để ma tà không lại gần làm hại người ốm, bởi người Thái quan niệm rằng ma tà, những điều xấu kỵ với các đồ vật này. Đồng thời “chiếc chõ còn là vật chứa đựng điều cấm. Chẳng hạn như kẻ rắp tâm muốn làm hại ai thì chúng sẽ trộm lấy áo của đối tượng đem bỏ vào chõ, đặt lên ninh lên bếp đồ. Người bị mất áo lập tức bị tai họa như gặp hổ vồ, xé xác ăn thịt...” (7, tr.98). Chõ xôi và chiếc ninh đồng tạo thành một bộ, là điểm nhấn không thể thiếu trong văn hóa của cộng đồng, có vị trí đặc biệt quan trọng trong nhận thức của người dân, được thể hiện là “một trong 4 thứ của gia truyền được kể ra thành ngạn ngữ: ninh đồng - chân chài - thanh gươm - khẩu súng” (7, tr.98). Ngày nay, ở nhiều nơi, không ít gia đình đã chuyển sang đồ xôi, nấu cơm bằng các loại xoong chảo hiện đại (cũng như ống khèn của người Mông đã xuất hiện các ống kim loại inox xen lẫn các ống tre truyền thống), nhưng với người Thái tỉnh Sơn La nói chung và người Thái xã Chiềng Kheo nói riêng thì “lý cũ” vẫn được người dân gìn giữ, chõ đồ xôi bằng gỗ vẫn được sử dụng hàng ngày, cùng với đó là những phong tục, tín ngưỡng, tâm linh liên quan đến chiếc chõ xôi vẫn được bảo tồn, nghề làm chõ vẫn được duy trì. 1.2.3. Giá trị văn hóa truyền thống Nói đến nghề làm chõ xôi thủ công không thể không nói đến tri thức dân gian, luật tục, tục lệ, thói quen trong lao động nông nghiệp Số 26 - Tháng 12 - 201846 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA và cách thức sử dụng. Khi vào rừng tìm cây gỗ để làm chõ, người dân thường đánh dấu bằng cách dùng taleo (được đan bằng tre có các mắt thưa như mắt cáo) để gắn dưới gốc cây, báo hiệu với người đến sau là cây đã có chủ. “Trong từng mường bản của người Thái có sự phân chia các loại rừng khác nhau tùy theo chức năng và giá trị sử dụng: rừng lấy gỗ, rừng lấy tre nứa, rừng đầu nguồn,... rừng khai thác nguyên liệu” (3, tr. 319). Người Thái quan niệm cây gỗ trong rừng có thần linh trú ngụ, trước khi đốn hạ phải khấn xin phép, báo hiệu với thần linh để khai thác đem về sử dụng. Bên cạnh việc khai thác tự nhiên, người Thái xã Chiềng Kheo còn mang những cây con về gần nhà trồng để lấy bóng mát, hoặc trồng cạnh bờ ao, bờ ruộng nhằm tạo nguồn, khai thác tại chỗ để sử dụng hoặc trao đổi mua bán với những người thợ làm nghề. Người Thái rất giỏi sử dụng rìu hoặc các dụng cụ đơn sơ như dao dựa, đục,... để chế tác chiếc chõ xôi bằng gỗ. Khi làm chõ, người Thái tuyệt đối không làm ở rừng hoặc bản khác, bởi theo họ, nếu làm ở nơi khác sẽ bị người dân ở đó học được nghề, mất đi tính độc tôn trong cách thức sử dụng nguyên liệu và quy trình làm chõ. “Giỏi đẽo gỗ ở quê mình Đến đất người chỉ mang rìu làm phụ” hoặc: “Dao rơi khỏi thắt lưng Đòn xanh rời khỏi vai - không tốt” (6, tr.465). Qua đó khẳng định về tính giáo dục, sự khiêm tốn, cẩn trọng trong việc khai thác, ngay cả cách thức mang dao, vác đòn cũng có kiêng kỵ, mang đặc trưng, kinh nghiệm được hun đúc trong lao động, sản xuất và làm nghề. “Tất cả các hoạt động từ việc đi kiếm ăn, bảo vệ nguồn thức ăn, quá trình sản xuất, ăn, ở, mặc, đi đứng, mang vác đều được tiến hành theo các tục lệ truyền thống. Các tục lệ truyền thống thường được các luật tục làm chỗ dựa chắc chắn, là nguồn động viên, khuyến khích cho các tục lệ tồn tại và phát triển” (4, tr.107). Qua ngàn đời nay, các thói quen, kinh nghiệm trong dân gian đã được đúc kết thành luật tục với mong muốn quản lý, duy trì và cân bằng xã hội. Nó cũng giúp cho việc bảo tồn những nét văn hóa đặc trưng, trong đó có sản phẩm truyền thống luôn hiện hữu trong gian bếp gia đình của cộng đồng Thái, đó là chiếc chõ xôi bằng gỗ mạy sọ - một sản phẩm nghề thủ công tồn tại bao đời nay. 2. Tri thức dân gian trong quy trình tạo dựng sản phẩm nghề làm chõ xôi truyền thống 2.1. Nguồn nguyên liệu Nguyên liệu làm chõ xôi là gỗ mạy sọ cũng có nơi gọi là cây sôcô, cây hoa bạc. Có thời điểm nguyên liệu gỗ làm chõ xôi khan hiếm, người thợ dùng gỗ gạo làm chõ, nhưng chủ yếu vẫn là gỗ mạy sọ, là loại gỗ tốt nhất để tạo nên sản phẩm. Cây gỗ mạy sọ mọc tự nhiên hoặc được người dân trồng gần nhà, cây lớn nhanh, thân thẳng, tròn, có màu trắng, ít mối mọt, lá to, lớp vỏ bên ngoài sần sùi nhìn giống vỏ cây xoài, có vệt nám trắng, nứt thành từng kẽ, có màu xám nhạt, xanh đen. Cây sống chủ yếu trên đồi dốc trong rừng hoặc núi cao, gần đây cây mọc xen kẽ với rừng thông, rìa nương rẫy cùng cỏ dại, cây bụi, cây không thuộc loại gỗ “tốt”, “quý hiếm” nhưng lại ít gặp, hiếm vì lượng cây không nhiều, cây to có chiều dài từ 7 - 15m cây già lên đến 25 - 30m, độ tuổi gỗ từ 7 đến 10 năm thì khai thác để làm chõ. Cây có ưu điểm chắc, mềm, dễ gia công, ít mắt. Phải tiến hành làm khi gỗ còn tươi bởi gỗ tươi có một lượng nước nhất định dễ dàng cho việc gia công, khi gỗ khô khó làm bởi độ quánh của gỗ nên dễ nứt, dai hoặc vỡ. Gỗ mạy sọ không độc, không mùi, đồ xôi ngon, thơm hơn so với gỗ gạo hay tre, nứa. Người thợ làm chõ thường mua gỗ từ các hộ dân lân cận hoặc của người Mông. Gỗ nguyên liệu được chặt nhỏ thành từng khúc phù hợp với chiều dài của sản phẩm. Sau khi mua bán hoặc trao đổi (mang 2 khúc gỗ đổi lấy một sản phẩm), gỗ được vận chuyển về bằng sức kéo của xe gắn máy, gia súc, khuân, vác và được bảo quản nơi kín gió, có độ ẩm cao (tránh để gỗ khô hanh) để dùng dần. Trước khi tạo hình sản phẩm, gỗ được loại bỏ mắt, chỗ sù sì bên ngoài của khúc gỗ, bằng cách dùng con dao dựa (mịt) chặt, đẽo, gọt cho tới khi gỗ bằng hai đầu. Sau đó người thợ sử dụng đôi bàn tay khéo léo kết hợp với những công cụ lao động thô sơ thường ngày để tạo ra những sản phẩm đủ kích cỡ. 47Số 26 - Tháng 12 - 2018 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ 2.2. Bộ dụng cụ tạo hình sản phẩm Bộ dụng cụ để tạo hình chõ khá đơn giản, được người dân sử dụng trong lao động, sản xuất thường ngày nhưng lại có công dụng và chức năng riêng biệt trong việc tạo hình sản xuất chõ xôi: Dao dựa (tiếng Thái gọi là mịt): là loại dao đa năng dùng trong nhiều công việc trong gia đình, dao một lưỡi rất sắc được làm từ nhíp ôtô hoặc sắt đặc, chiều dài dao 35cm, chuôi dao 20cm. Dao dùng để gọt, đẽo, vót, chặt khi tạo hình sản phẩm. Đục 2 (ma síu): gọi là đục 2 bởi lưỡi đục có kích thước rộng 2cm, đục dài 30cm, bao gồm phần thân đục dài 20cm và phần chuôi dài 10cm. Đục 2 dùng để tạo rãnh trong của sản phẩm, khoét phần lõi từ đầu này thông sang đầu kia. Đục được rèn tại địa phương từ thanh sắt phi 6 (dùng trong xây dựng) hoặc mua từ các cửa hàng sắt, cơ khí trong vùng. Đục móng (ma long): lưỡi đục có hình khuyết dạng móng tay, đục dài 45cm, bao gồm phần thân đục 35cm và phần chuôi đục dài 10cm. (Đục móng thường được dùng để đục lỗ tròn trong việc dựng nhà). Trong việc tạo hình chõ, đục dùng để chỉnh sửa mặt trong sản phẩm tạo mặt phẳng, nhẵn xuyên suốt từ đầu cho tới phần cuối sản phẩm. Dùi đục (mạy cọn): có chiều dài 35cm, gồm phần tay cầm và phần đầu (trực tiếp tác động với chuôi đục). Phần tay cầm, nắm nhỏ hơn so với phần đầu (phần gõ). Dùi đục được làm bằng các loại gỗ chắc, cứng, nhằm hạn chế bào mòn, bởi lực tác động lên phần chuôi đục liên tục trong quá trình tạo ra sản phẩm (5). 2.3. Kỹ thuật tạo hình sản phẩm Việc tạo hình sản phẩm được tiến hành dưới sàn nhà hoặc trên lán nương của gia đình. Mỗi khúc gỗ mạy sọ dùng làm chõ xôi có đường kính dao động từ 20 - 30cm, chiều cao khoảng 30 - 38cm tùy theo nhu cầu sử dụng hoặc số lượng thành viên trong mỗi gia đình. Khâu đầu tiên trong việc tạo hình là loại bỏ phần vỏ gỗ, sau đó dùng dao dựa đẽo khúc gỗ thành nhiều cạnh dạng hình bát giác nhằm mục đích khi tạo hình sản phẩm không bị xê dịch bởi các cạnh. Đặt khúc gỗ theo chiều thẳng đứng, người thợ dùng đục 2 và dùng sức tác động lên phần chuôi của đục, đục từng góc trên mặt sản phẩm, cứ thế cho tới khi nào thủng hai đầu, từ đầu trên xuống đầu dưới. Sau khi đục thủng hai đầu, người thợ dùng đục móng chỉnh sửa lại bên trong sản phẩm cho thật nhẵn, tròn một cách tỉ mỉ, cẩn thận chăm chút. Tiếp đến dùng dao dựa gọt xung quanh bề mặt bên ngoài sản phẩm cho nhẵn, dùng hai tay cầm hai đầu (phần chuôi và phần đầu dao) của con dao dựa và cứ thế vừa chuốt (giống như bào gỗ của người thợ mộc) vừa chỉnh lại cho thật ưng ý, đảm bảo độ dày thành chõ là 2,5 - 3cm, đầu trên to hơn và thon đều xuống phần dưới theo dạng hình trụ (phần đặt vào chiếc ninh khi xôi), bên trong và bên ngoài phải cân đối và đều nhau. Khi đục từ trên xuống phía dưới bên trong sản phẩm, cách phần đáy 5 - 7cm (chiều này không khoét vát theo hình dạng bên ngoài) thì đục bằng, thẳng phần còn lại, giữa hai phần được ngăn cách bởi rãnh được khoét bằng đục móng bao quanh, sâu 0,3cm, đoạn này dùng hai thanh tre đặt chéo nhau sao