Bi cảm Aware trong “đẹp và buồn” của Kawabata

1. Giới thiệu Yasunary Kawabata là một trong những tên tuổi làm nên diện mạo văn học Nhật Bản hiện đại. Tác phẩm của Kawabata là sự hòa hợp giữa truyền thống và hiện đại nhưng cốt lõi của nó vẫn là cốt cách Nhật Bản. Đúng như Seindensticker nói, Kawabata “thuộc dòng văn chương mà chúng ta có thể truy nguyên về tận các bậc thầy haikư thế kỷ XVII”. Trong số các tiểu thuyết của Kawabata, “Đẹp và Buồn” ra đời vào giai đoạn cuối của sự nghiệp nhưng có thể xem nó là “bản tuyên ngôn” về quan niệm thẩm mỹ của ông. Trong tiểu thuyết này Kawabata đã thể hiện rõ nét “cái đẹp và sự thương cảm” – biểu hiện của chất aware truyền thống trong văn học Nhật Bản. Đề tài “Bi cảm aware trong Đẹp và Buồn của Kawabata” chính là một đóng góp trong việc tìm hiểu sự gắn bó giữa thẩm mỹ truyền thống với sáng tác của Kawabata

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bi cảm Aware trong “đẹp và buồn” của Kawabata, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 152 BI CẢM AWARE TRONG “ĐẸP VÀ BUỒN” CỦA KAWABATA Lê Nguyễn Hoàng Mai (Sinh viên năm 3, Khoa Ngữ Văn) GVHD: TS. Nguyễn Thị Bích Thúy 1. Giới thiệu Yasunary Kawabata là một trong những tên tuổi làm nên diện mạo văn học Nhật Bản hiện đại. Tác phẩm của Kawabata là sự hòa hợp giữa truyền thống và hiện đại nhưng cốt lõi của nó vẫn là cốt cách Nhật Bản. Đúng như Seindensticker nói, Kawabata “thuộc dòng văn chương mà chúng ta có thể truy nguyên về tận các bậc thầy haikư thế kỷ XVII”. Trong số các tiểu thuyết của Kawabata, “Đẹp và Buồn” ra đời vào giai đoạn cuối của sự nghiệp nhưng có thể xem nó là “bản tuyên ngôn” về quan niệm thẩm mỹ của ông. Trong tiểu thuyết này Kawabata đã thể hiện rõ nét “cái đẹp và sự thương cảm” – biểu hiện của chất aware truyền thống trong văn học Nhật Bản. Đề tài “Bi cảm aware trong Đẹp và Buồn của Kawabata” chính là một đóng góp trong việc tìm hiểu sự gắn bó giữa thẩm mỹ truyền thống với sáng tác của Kawabata. 2. Nội dung 2.1. Kawabata và khái niệm bi cảm aware trong văn học Nhật Bản Kawabata là một trong những tên tuổi nổi bật của văn đàn Nhật Bản. Ông bắt đầu sáng tác từ năm mười sáu tuổi với tự truyện “Nhật kí tuổi mười sáu”, và sau đó là hàng loạt tác phẩm gây tiếng vang lớn “Vũ nữ xứ Izu”, “Truyện ngắn trong lòng bàn tay” và bộ ba tiểu thuyết đoạt giải Nobel 1968 “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc” và “Cố đô”. Cùng với giải Nobel này, tên tuổi Kawabata đã vượt xa khỏi biên giới Nhật Bản để được biết đến như là “người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người” (Nhận định của Hội đồng chấm giải Nobel). Chính truyền thống văn hóa dân tộc và những tác động của tuổi thơ đã khiến người ta tìm thấy trong các sáng tác của ông một vẻ đẹp u buồn tinh tế và một nỗi cô đơn đậm chất Nhật Bản. Tuổi thơ của Kawabata không trôi qua êm đềm như bao đứa trẻ khác. Một tuổi mồ côi cha, hai tuổi mồ côi mẹ, bảy tuổi bà ngoại qua đời, chín tuổi chị gái mất. Kawabata sống với ông ngoại mù lòa tới năm mười lăm tuổi thì ông ngoại cũng ra đi. Từ đó, trong sáng tác của Kawabata thường có ám ảnh về cái chết và nỗi cô đơn u sầu. Năm ông hai mươi tuổi, cuộc tình với một cô gái tên Chiyo tan vỡ nhưng những ấn tượng về cuộc tình đó còn Năm học 2009– 2010 153 vang bóng mãi trong sáng tác sau này của nhà văn với hình tượng “người đẹp trong sáng” và “tình yêu tuyệt vọng”. Chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa dân tộc, sáng tác của Kawabata còn là tiếng đồng vọng giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại. Tự nhận mình “chủ yếu là một người phương Đông” và được mệnh danh là “người Nhật Bản nhất”, Kawabata rất ý thức về việc thể hiện dấu ấn văn hóa truyền thống trong các sáng tác của mình. Tác phẩm của ông là kết tinh những tố chất đẹp nhất của truyền thống văn chương xứ sở Phù Tang mà người ta tìm thấy trong các kiệt tác tiểu thuyết và tùy bút thời Heian, trong sân khấu Noh, trong thơ haikư, Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của văn hóa truyền thống lên tác phẩm Kawabata có lẽ là quan niệm thẩm mỹ. Ông là một nhà văn hiện đại có nhãn quan truyền thống, bởi lẽ trong những sáng tác của ông, dù là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cũng toát lên một vẻ đẹp đậm chất Nhật Bản. “Khuynh hướng coi trọng các giá trị mỹ học mạnh hơn tính luân lí” [4] – đó là nhận định có tính khái quát về đặc điểm của văn học xứ Phù Tang. Điều này thể hiện trong hệ thống quan niệm về tính chất của cái đẹp, đó là mono no aware (bi cảm Nhật Bản), wabi/sabi (u buồn, cô tịch), yugen (u huyền). Trong số các khái niệm đó, đáng chú ý nhất là mono no aware. Mặc dù chưa bao quát toàn bộ các đặc trưng nhưng nhiều nhà nghiên cứu đã xem đây như khái niệm có tính chất “mở cửa” cho nền văn học Nhật Bản. Đây là khái niệm do Motoori Norinaga (1730 – 1801), một học giả thế kỷ XVIII đưa ra. Trong những công trình nghiên cứu của Motoori Norinaga và các học giả sau đó, mono no aware được coi là một hình thái đặc trưng của cảm thức Nhật Bản khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Với ý nghĩa đó, mono no aware có thể hiểu là “cảm thức xao xuyến trước mọi vẻ đẹp nao lòng của sự vật” (Nhật Chiêu), là “cảm xúc sâu lắng khi chạm đến sự cơ vi và mỏng manh của đời người” (Mitsuyoshi Numano). Khi chuyển nghĩa sang tiếng Việt, có thể gọi mono no aware là “bi cảm” hay “bi ai”. Tuy nhiên, “bi cảm” hay “bi ai” thực tế chỉ là một phần của cái gọi là aware. Nói một cách khái quát, aware chính là khái niệm sinh ra từ sự hòa hợp, thống nhất giữa đối tượng khách quan với thế giới chủ quan mà trong đó con người cảm thấy rung động sâu lắng trước vẻ đẹp trong chiều hướng mất mát, phôi pha. Cái mỹ cảm của một sự vật gây ra cảm giác aware chính là nỗi buồn nhẹ nhàng trước vẻ đẹp hư hao. Tiếp nối những nhà văn tiền bối, chịu ảnh hưởng bởi Murasaki, thơ haikư, nghệ thuật sân khấu Noh,Kawabata kiên trì đi tiếp trên con đường tìm “cái đẹp Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 154 hiện hữu” (bino zon zai) và tạo nên những trang viết thấm đẫm tinh thần aware, mà trong đó tiểu thuyết “Đẹp và Buồn” chính là một điển hình. 2.2. Bi cảm aware trong “Đẹp và Buồn” của Kawabata “Đẹp và Buồn” (Utkutsushisa to Kanashimi to) là tiểu thuyết được Kawabata xuất bản vào năm 1965. Đó là câu chuyện cuối đời của một nhà văn về thăm cố đô và vô tình khơi lại mối tình hai mươi năm về trước. Với nhan đề như một tuyên ngôn nghệ thuật, “Đẹp và Buồn” đã báo trước đây là một tiểu thuyết được viết ra với dụng công biến nó thành “bản giao hưởng ngân vang trong lòng một nỗi u buồn” [6]. 2.2.1 Niềm bi cảm trước thời gian Thời gian vừa là hoàn cảnh gợi nên vẻ đẹp aware vừa là đối tượng phản ánh aware. Trong cách tái hiện thời gian và cảm nhận thời gian, Kawabata đã thể hiện nỗi ám ảnh về thời gian trôi chảy và thời gian hồi tưởng. Câu chuyện mở ra bằng khoảnh khắc giao thoa giữa năm mới và năm củ. Chỉ trong thời điểm đó con người mới cảm nhận được dấu ấn thời gian để lại trên cuộc đời của họ: “Giao thừa, chúng ta mỗi người già đi một tuổi, sợ có buồn chăng?”. Ám ảnh về thời gian còn được Kawabata “vật chất hóa” bằng hệ thống các hình ảnh có tính biểu tượng. Đó là chiếc chuông chùa cổ, “âm ba lướt thướt như tiếng thời gian, gợi lại linh hồn nước Nhật xa xưa”. Tiếng chuông chùa như tiếng đồng vọng từ quá khứ đến hiện tại. Nó làm sống dậy trong lòng người nghe những ý niệm về thời gian, về sự trôi chảy vô thủy vô chung. Những đoạn triết lý của các nhân vật, tuy ngắn nhưng khiến người đọc có cảm giác tất cả nhân vật trong tiểu thuyết này đều sống trong một nỗi ám ảnh triền miên về dòng thời gian vận động bất tận. Tuy nhiên, sự trôi chảy của thời gian trong “Đẹp và Buồn” không chỉ đơn giản là sự thay đổi, mà nó còn là sự vận động theo chiều hướng mất mát phôi pha. Kawabata đã sử dụng hàng loạt hình ảnh, chi tiết có tính hệ thống để làm nên chất bi cảm aware này. Đó là những ngôi mộ và những chuyến thăm nghĩa trang gợi lên một nỗi bi cảm sâu sắc: thời gian trôi đi không ngừng nghỉ và kéo theo sự phai tàn của vạn vật. Đó là hình ảnh một Keiko với vẻ đẹp tươi trẻ nhưng cái tươi trẻ đó lại được đặt trong đối sánh với trục thời gian, tạo nên ấn tượng bi ai về sự thay đổi, tàn phai, hao khuyết của con người, của cuộc đời. Thời gian mang màu sắc aware trong “Đẹp và Buồn” còn là thứ thời gian của hồi tưởng và thấm đẫm cảm xúc của con người. Thời gian với tư cách yếu tố tồn tại độc lập bị lấn át bởi thời gian với tư cách là dòng chảy nội tâm. Thời gian thực bị chìm khuất sau thời gian tâm lý. Thời gian thực mà câu chuyện diễn ra Năm học 2009– 2010 155 chỉ kéo dài khoảng một năm nhưng ở đó dồn nén cả một quãng đời kéo dài hơn hai mươi năm của các nhân vật. Hai mạch thời gian lồng ghép, khoảnh khắc hiện tại đột ngột nhường chỗ cho những mảng thời gian quá khứ hiện về với bao nỗi niềm hoài nhớ. Đó là những kỉ niệm của Otoko với Oki, những ấn tượng của Oki về các khung cảnh, là hồi tưởng của Otoko khi ngồi bên quán trà trên bờ sông, Chính những cảm nhận đầy tính chủ quan và thấm đượm cảm xúc đó của con người đã làm cho thời gian mang dấu ấn aware đậm nét. 2.2.2 Niềm bi cảm trước vẻ đẹp phù du “Đẹp và Buồn” tràn ngập niềm thương cảm trước vẻ đẹp phù du mong manh của con người, tình yêu và thiên nhiên. Ở con người, chất aware được biểu hiện trong vẻ đẹp của ngoại hình và tâm hồn các nhân vật nữ: Keiko, Otoko, Fumiko. Đó đều là những người phụ nữ mang vẻ đẹp có cái gì yếu đuối, hiền lành, trong sáng. Nét đẹp của họ có cái gì thoáng buồn, thoáng u sầu, thoáng “aware”. Đức hạnh của những nhân vật này cũng là thứ đức hạnh nhiều đau khổ nảy nở trong u buồn. Otoko, dù cuộc sống bị đảo lộn nhưng vẫn dành cho Oki một tình yêu như bông sen trong lửa. Fumiko, đau khổ vì bị phản bội, vẫn hết lòng vì chồng và tự tay đóng năm mươi ngàn dấu triện lên dấu tích của sự phản bội đó. Ở họ toát lên một vẻ đẹp của sự vị tha và hy sinh – vẻ đẹp nhuốm màu aware. Đẹp là thế, vị tha hy sinh là thế, nhưng chính Keiko, Otoko và Fumiko lại là những người số phận bi kịch. Otoko đắm chìm trong bi kịch hoài niệm, luôn nhớ tiếc quá khứ, không thể thoát khỏi những ám ảnh về cuộc tình hai mươi năm trước. Fumiko chưa bao giờ có được tình yêu trọn vẹn của Oki. Keiko đeo đuổi một tình yêu tuyệt vọng với cô giáo và cuối cùng nhận được kết cục đau buồn. Tất cả đều toát lên một niềm bi cảm sâu sắc. Không chỉ có nhân vật bi kịch gợi niềm thương cảm, mà tình yêu trong “Đẹp và Buồn” cũng mang màu sắc aware. Nó là những tình yêu tan vỡ, tình yêu không thành, tình yêu tuyệt vọng. Mối tình hai mươi năm trước giữa nhà văn Oki và cô bé mười sáu tuổi Otoko đã kết thúc trong u buồn đau khổ với sự ra đi của một hài nhi thiếu tháng. Nhưng đó vẫn là một tình yêu đẹp, đủ đẹp để Oki viết nên một quyển tiểu thuyết đẩy ông lên hàng những nhà văn nổi tiếng nhất, và cũng đủ đẹp để giữ Otoko đắm chìm trong quá khứ và nâng tình yêu đó thành một thứ “sen trong lửa”. Tình yêu giữa Fumiko và Oki thì lại là thứ tình yêu hy sinh và tận hiến. Nó gần như là một tình yêu nhẫn nhục, chịu đựng và tha thứ nhưng chất chứa đầy nước mắt và đau khổ - đã được che giấu bằng những hành động và nụ cười bên ngoài. Tình yêu giữa Keiko và Fumiko là một thứ tình yêu tuyệt vọng. Nỗ lực của Keiko là một thứ nỗ lực tuyệt vọng và không thể đạt kết Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 156 quả vì Otoko chưa bao giờ thực sự mở lòng mình và Keiko luôn đắm chìm trong cảm giác cô đơn và chạy trốn cô đơn. Tình yêu trong “Đẹp và Buồn” toát ra một dự cảm về sự mong manh, phù du, dễ tàn phai. Cuộc tình giữa Otoko và Oki chỉ kéo dài mấy năm, nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi trong lòng hai người. Tình yêu đẹp. Nhưng không là vĩnh hằng. Và cái còn lại là một niềm bi cảm sâu sắc: “Tình yêu của những cặp này Nhất định là chỉ sang đông, nhiều anh chị chắc không còn muốn thấy mặt nhau nữa”. Tình yêu sẽ chóng phai tàn, vì đó là quy luật về sự hữu hạn của cái Đẹp, là nguyên lý “nỗi buồn sự vật” đã từng thấm đẫm trong văn hóa truyền thống Nhật Bản. Không chỉ được thể hiện trong nỗi thương cảm với vẻ đẹp và số phận nhân vật, trong cảm quan về tình yêu, aware còn thấm đẫm trong bức tranh thiên nhiên. Thiên nhiên của ông không phải là thiên nhiên “ngoại cảnh”, không phải là khách thể chủ quan hay khung cảnh làm nền cho hoạt động của nhân vật. Thiên nhiên gợi nên tâm cảnh và hoài niệm. Mỗi khung cảnh đều làm ta nhớ đến một chuyện gì đó của quá khứ và giống như là bức tranh phản chiếu nội tâm con người. Thiên nhiên đó còn là thiên nhiên của phai tàn, của hư hao nhưng vẫn đẹp đẽ. Đó là thiên nhiên của những buổi hoàng hôn nắng tắt, những nghĩa trang, những đền đài lăng tẩm. Đẹp mà buồn. Đó chính là chất aware trong bức tranh thiên nhiên mà Kawabata thể hiện trong tiểu thuyết này. 2.2.3 Niềm bi cảm về nỗi cô đơn Hương vị sự cô đơn trong tác phẩm Kawabata không phải là nỗi cô đơn của Tây phương, của chủ nghĩa lãng mạn, mà nó là nỗi cô đơn mang màu sắc Nhật Bản, màu sắc của aware. Trong khi ở chủ nghĩa lãng mạn, cô đơn là sự phản ứng trước thế giới thì ở Kawabata, cô đơn là trạng thái của thế giới. Trong “Đẹp và Buồn”, người ta có cảm giác cô đơn là một phần của thế giới hiện hữu. Nó là thuộc tính của thế giới. Chính vì lẽ đó mà trong “Đẹp và Buồn” nỗi cô đơn phảng phất, bàng bạc khắp tiểu thuyết. Nhưng nó không ám ảnh, không u tối, không ngột ngạt, mà trái lại, nỗi cô đơn đó dịu nhẹ man mác. Nỗi cô đơn đó lan tỏa trong cảnh vật và xâm chiếm cả tình yêu. Những khung cảnh mà con người ghé qua đều là những thứ gây nên cảm giác đơn độc, lẻ loi với một vẻ yên tĩnh thường thấy, một sự tịch mịch đến nao lòng, một cái gì đó khép kín, riêng biệt. Trong khung cảnh đó, con người cảm thấy nỗi cô đơn xâm chiếm lấy mình. Những đoạn hội thoại chiếm tỉ lệ ít, chủ yếu là độc thoại nội tâm. Nhân vật sống với bản thân và những cảm xúc của bản Năm học 2009– 2010 157 thân. Những bức tranh vẽ của Otoko chính là sự hiện thực hóa cảm giác này trong bản thân của mỗi con người: một sự phóng đại cái tôi đơn độc bằng hình tượng bông hoa mẫu đơn to quá khổ. Sự kì lạ và khó hiểu của Keiko cũng là một dạng cô đơn. Cô đơn trong chính cuộc sống của mình. Sự cô đơn đó mang màu sắc bi cảm aware. Nó không choáng ngợp, ủ rũ, khép kín mà phảng phất, nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Cảm giác cô đơn của nhân vật bất chợt nảy sinh trong một hoàn cảnh, tình huống hoặc sự việc nào đấy, không nặng nề ám ảnh nhưng đủ để người đọc khám phá ra vẻ u uẩn ẩn giấu trong tâm hồn của họ. Tình yêu của con người cũng chìm trong cô đơn. Trong mối tình giữa Otoko và Keiko, cả hai đều cô đơn. Nhưng nếu Otoko cô đơn vì cảm thấy mình khác biệt với Keiko, và nàng hình như muốn được cô đơn, muốn được “trú ẩn” trong thế giới tình yêu cô độc của mình, thì Keiko cô đơn vì nỗ lực tìm sự hòa hợp. Còn trong tình yêu giữa Fumiko với Oki, nỗi cô đơn của Fumiko là nỗi cô đơn của một người vợ yêu chồng nhưng tình yêu đó lại không được đáp trả. Trong tim Oki, chỉ có hình bóng Otoko. Không được đáp trả, Fumiko trở thành một người vợ cô đơn. Tất cả những tình yêu đó đều gợi ra trong lòng người một niềm bi cảm sâu sắc – aware. 3. Kết luận Trong “Đẹp và Buồn”, chất aware bi ai sâu lắng bộc lộ trong nỗi ám ảnh về dòng thời gian trôi chảy kéo theo sự phai tàn của vạn vật. Trên dòng thời gian đó hiện lên hình ảnh những con người, những câu chuyện tình yêu rất đẹp nhưng cũng rất buồn: số phận con người thì đau thương ngắn ngủi; tình yêu thì chóng vánh, mong manh. Cảm xúc aware trước thế giới khách quan khiến thời gian mang màu sắc nội tâm, con người sống mãi trong hoài niệm, cô đơn còn thiên nhiên dường như cũng đượm màu tâm cảnh và khiến con người không khỏi xao xuyến bâng khuâng. Vì thế, quả thật không ngoa khi nói rằng tiểu thuyết này không chỉ kể lại một câu chuyện tình, mà nó còn tạo lập được cả một thế giới đầy bi cảm, một thế giới của cảm xúc bao trùm bởi cái đẹp mong manh, phai tàn – thế giới aware! Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 158 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nhật Chiêu (2007), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, Hà Nội: Giáo dục. [2] Nhật Chiêu (2007), Nhật Bản trong chiếc gương soi, Hà Nội: Giáo dục. [3] Đào Thị Thu Hằng (2007), Văn hóa Nhật Bản và Yasunary Kawabata, Hà Nội: Giáo dục. [4] Mitsuyoshi Numano (2009), “Lịch sử và đặc trưng của văn học Nhật Bản – từ Mono no aware đến kawaii”, Hội thảo Văn học Nhật Bản, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam (The Japan Foundation), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM. [5] Hoàng Thị Mỹ Nhi, Niềm bi cảm (aware) trong “Truyện Genji” của Murasaki Shikibu, Bản tóm tắt luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. [6] Trần Thị Tố Loan, “Mỹ học Kawabata”, Hội thảo “Kawabata Yasunary trong nhà trường”, Đại học Sư phạm Hà Nội, (Bài đăng trên website Văn nghệ Quân đội: [7] Website Yasunary Kawabata – Người mang nỗi buồn triền miên. (Dịch từ The Newstatesman). [8] Lê Thị Hường (2001), “Kawabata – Người lữ khách u sầu đi tìm cái đẹp”, Tạp chí Sông Hương số 154, (Bài đăng trên website: [9] Hà Văn Lưỡng (2009), “Tiếp nhận tác phẩm Y. Kawabata ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học Đại học Huế, số 54, (Bài đăng trên website: www.hueuni.edu.vn). [10] Eiichi Aoki, Nguyễn Kiên Trường dịch (2006) Nhật Bản: đất nước và con người, Hà Nội: Văn học.