TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm khảo sát sự biến động của quần xã phiêu sinh động vật trên sông
Ba Lai tỉnh Bến Tre. Nghiên cứu được tiến hành vào 2 mùa: mùa mưa (tháng 9/2017) và mùa khô
(3/2018). Nghiên cứu được tiến hành tại 7 điểm thuộc sông Ba Lai, tỉnh Bến Tre. Kết quả ghi nhận
được 95 taxa phiêu sinh động vật thuộc 56 giống, 39 họ, 12 bộ, 8 lớp, 5 ngành. Nhìn chung về
thành phần loài thu được ở cả 2 mùa, nhóm Rotatoria là nhóm có số lượng loài cao nhất. Xét riêng
từng mùa, vào mùa mưa, nhóm Rotatoria là nhóm chiếm ưu thế về mật độ và thành phần loài tại
các điểm thu mẫu. Nhóm Copepoda là nhóm chiếm ưu thế về mật độ và thành phần loài vào mùa
khô. Có sự xuất hiện của một số loài nước mặn tại các điểm thu mẫu vào mùa khô. Kết quả phân
tích Bray – Curtis cho thấy quần xã phiêu sinh động vật giữa mùa mưa và mùa khô tại các điểm
thu mẫu có độ tương đồng không cao do có sự chuyển đổi cấu trúc quần xã phiêu sinh động vật
giữa mùa mưa và khô. Tất cả đều cho thấy có sự xâm nhập mặn diễm ra trên sông Ba Lai vào mùa
khô. Dù đã có hệ thống đập chắn ngăn mặn, nhưng hiện tượng xâm nhập mặn vẫn diễn ra. Cần
có những biện pháp xử lý nhằm đảm bảo đủ nguồn nước ngọt cung cấp cho người dân vào mùa
khô.
13 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến động quần xã phiêu sinh động vật trên sông Ba Lai, tỉnh Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(4):776-788
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
ĐHQG-HCM, Việt Nam
Liên hệ
Hà Nguyễn Ý Nhi, Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên, ĐHQG-HCM, Việt Nam
Email: hanguyenynhi@gmail.com
Lịch sử
Ngày nhận: 13-12-2016
Ngày chấp nhận: 23-9-2020
Ngày đăng: 03-11-2020
DOI : 10.32508/stdjns.v4i4.863
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Biến động quần xã phiêu sinh động vật trên sông Ba Lai, tỉnh Bến
Tre
Hà Nguyễn Ý Nhi*, Trần Ngọc DiễmMy
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm khảo sát sự biến động của quần xã phiêu sinh động vật trên sông
Ba Lai tỉnh Bến Tre. Nghiên cứu được tiến hành vào 2 mùa: mùa mưa (tháng 9/2017) và mùa khô
(3/2018). Nghiên cứu được tiến hành tại 7 điểm thuộc sông Ba Lai, tỉnh Bến Tre. Kết quả ghi nhận
được 95 taxa phiêu sinh động vật thuộc 56 giống, 39 họ, 12 bộ, 8 lớp, 5 ngành. Nhìn chung về
thành phần loài thu được ở cả 2 mùa, nhóm Rotatoria là nhóm có số lượng loài cao nhất. Xét riêng
từng mùa, vào mùa mưa, nhóm Rotatoria là nhóm chiếm ưu thế về mật độ và thành phần loài tại
các điểm thumẫu. Nhóm Copepoda là nhóm chiếm ưu thế vềmật độ và thành phần loài vàomùa
khô. Có sự xuất hiện của một số loài nước mặn tại các điểm thu mẫu vào mùa khô. Kết quả phân
tích Bray – Curtis cho thấy quần xã phiêu sinh động vật giữa mùa mưa và mùa khô tại các điểm
thu mẫu có độ tương đồng không cao do có sự chuyển đổi cấu trúc quần xã phiêu sinh động vật
giữa mùa mưa và khô. Tất cả đều cho thấy có sự xâm nhập mặn diễm ra trên sông Ba Lai vào mùa
khô. Dù đã có hệ thống đập chắn ngăn mặn, nhưng hiện tượng xâm nhập mặn vẫn diễn ra. Cần
có những biện pháp xử lý nhằm đảm bảo đủ nguồn nước ngọt cung cấp cho người dân vào mùa
khô.
Từ khoá: phiêu sinh động vật, sông Ba Lai, xâm nhập mặn, Bến Tre
MỞĐẦU
Sông Ba Lai là một trong bốn con sông lớn trong hệ
thống sông ngòi trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Tác động
của tình trạng xâm nhập mặn diễn ra nghiêm trọng
trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã khiến cho đời sống người
dân gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết vấn đề, năm
2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã cho xây dựng
cống đập Ba Lai nhằmngăn chặn tình trạng xâmnhập
mặn đang diễn ra mạnh mẽ trên sông Ba Lai. Trong
quá trình vận hành, đập Ba Lai đã phát huy được
nhiều ưu điểm về phát triển kinh tế và quy hoạch tổng
thể1. Tình trạng xâm nhập mặn trên sông Ba Lai đã
được giảm thiểu. Tuy nhiên, cống đập Ba Lai cũng đã
thể hiện nhiều mặt hạn chế. Sự thay đổi thủy lưu đã
dẫn đến sự xói mòn và bồi lắng cục bộ tại một số khu
vực thuộc tỉnh Bến Tre. Sự bồi tụ của cửa sông Ba Lai
là do tác động của đập Ba Lai gây nên2. Do hạn chế sự
lưu thông của dòng nước khiến cho khả năng tự thanh
lọc của thủy vực giảm, do vậy môi trường nước dễ bị
ô nhiễm. Tình trạng này cũng được ghi nhận trong
nghiên cứu của Wei cộng sự thực hiện năm 2009 tại
đập Manwan trên sông Lancang, Trung Quốc 3. Một
số nghiên cứu cũng đã cho thấy tình trạng đa dạng
sinh học của quần xã sinh vật tại các lưu vực sông có
sự xuất hiện của đập chắn cũng suy giảm. Nghiên cứu
ở vùng vịnh Mobile ở Mỹ đã cho thấy 32/48 loài thân
mềm đã biến mất do việc xây dựng các đập thủy lợi 4.
Phiêu sinh động vật đóng vai trò rất quan trọng trong
quần xã sinh vật thủy sinh. Chúng làmắc xích liên kết
giữa các sinh vật sản xuất bậc một với các bậc dinh
dưỡng cao hơn trong hệ sinh thái thủy sinh 5. Các
nghiên cứu về phiêu sinh động vật thường được tiến
hành trên 5 nhóm lớn: nhómProtozoa, nhómRotato-
ria, nhóm Cladocera, nhóm Copepoda và nhóm Os-
tracoda. Với đặc tính sinh sản nhanh, số lượng cá thể
nhiều và vòng đời tương đối ngắn cũng đã giúp chúng
có thể trở thành đối tượng được lựa chọn làm sinh vật
chỉ thị, dùng để đánh giá và giám sát chất lượng môi
trường nước 6. Vì vậy, việc nghiên cứu về biến động
quần xã phiêu sinh động vật có thể góp phần vào việc
đánh giá đánh giá tác động của đập Ba Lai lên nước
sông Ba Lai (đặc biệt là vào mùa khô) một cách khách
quan và toàn diện hơn.
Với vai trò quan trọng trong hệ sinh thái thủy vực
cũng như ứng dụng trong việc đánh giá chất lượng
nước, các nghiên cứu trên đối tượng đang được thực
hiện ngày càng nhiều. Nhiều nghiên cứu về đối tượng
phiêu sinh động vật đã được thực hiện rộng rãi trong
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, tại
tỉnh Bến Tre chưa có nhiều các nghiên cứu về phiêu
sinh động vật được công bố. Vậy nên nghiên cứu này
sẽ bổ sung nguồn cơ sở dữ liệu về phiêu sinh động vật
tại tỉnh Bến Tre, cụ thể là tại sông Ba Lai, phục vụ cho
Trích dẫn bài báo này: Nhi H N Y, My T N D. Biến động quần xã phiêu sinh động vật trên sông Ba Lai,
tỉnh Bến Tre. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 4(4):776-788.
776
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(4):776-788
các nghiên cứu kế tiếp về đối tượng này trong tương
lai.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mẫu phiêu sinh động vật được thu theo 2 đợt: mùa
mưa (tháng 9/2017) và mùa khô (tháng 3/2018)
(Hình 1). Thu mẫu tại 7 điểm khác nhau như trên
bản đồ. Mẫu phiêu sinh được thu bằng lưới Juday với
mắc lưới là 40 mm. Mẫu được bảo quản trong formol
10% và đem về phòng thí nghiệm để phân tích định
danh và định lượng.7
- Đối với mẫu định tính: Dùng pipet hút lấy mẫu ở
đáy lọ, cho vào buồng đếm và quan sát dưới kính hiển
vi. Sau đó mẫu được chụp hình lại và tiến hành định
danh theo các tài liệu định danh đã có.
- Đối với mẫu định lượng: lắc đều lọ mẫu, dùng pipet
hút 1ml mẫu và cho vào buồng đếm rồi quan sát mẫu
dưới kính hiển vi. Thực hiện 3 -10 lần đếm cho mỗi
mẫu phiêu sinh động vật thu được. Sau đó tiến hành
định danh và đếm số lượng theo loài thu được.
Các chỉ số đa dạng như Shannon – Wiener, Magalef
được sử dụng để đánh giámức độ đa dạng của quần xã
phiêu sinh động vật. Chỉ số Shannon –Wiener vàMa-
galef cũng được sử dụng để đánh giá mức độ ô nhiễm
củamôi trường nước 8. Chỉ só ưu thế và Chỉ số Pielou
được tính toán nhằm đánh giá mức độ bền vững của
quần xã sinh vật9. Bên cạnh đó, chương trình Primer
6.0 và chương trình SPSS 20. cũng được áp dụng để
phân tích thống kê dữ liệu. So sánh sự khác biệt về
và giữa 2 mùa mưa và mùa khô bằng phương pháp
T-test đối với số liệu tuân theo phân phối chuẩn và
phương pháp phân tích phi tham số với các số liệu
không chuẩn. Phân tích mức độ tương đồng giữa các
cấu trúc quần xã bằng phương pháp Bray – Curtis.
Bảng 1: Đánh giá chất lượng nước theo chỉ số đa dạng
H’ 8
Chỉ số đa dạng H’ Chất lượng nước
< 1 Rất ô nhiễm (Polysaprobic)
1 - 2 Ô nhiễm (a-polysaprobic)
> 2 - 3 Khá ô nhiễm (a-mesosaprobic
Ô nhiễm vừa ( -mesosaprobic)
> 3 - 4,5 Tương đối sạch (Oligosaprobic)
> 4-5 Nước sạch
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thành phần loài
Kết quả ghi nhận được 95 taxa phiêu sinh động vật
thuộc 56 giống, 39 họ, 12 bộ, 8 lớp, 5 ngành. Ngoài 5
nhómphiêu sinh động vật thường gặp, kết quả nghiên
cứu cũng đã ghi nhận sự xuất hiện của nhóm ấu trùng
với 5 taxa: ấu trùng tôm, ấu trùng cua, tômMysis (My-
sis sp.), 2 ấu trùng thuộc ngành giun đốt (ấu trùng
polynoinien và Polydora ciliata). Trong 6 nhóm ghi
nhận được, nhóm Rotatoria là nhóm có số lượng loài
chiếm tỉ lệ cao nhất với 54 loài chiếm 56,84% (Hình 2
a). Nhóm có tỉ lệ thành phần loài cao tiếp theo là
nhóm Copepoda với 18 loài chiếm 18,95%. Tiếp theo
là nhóm Protozoa với 7 loài chiếm 7,37%. Nhóm
Cladocera chiếm 6,32% với 6 loài. Thấp nhất là 2
nhóm Ostracoda và ấu trùng chiếm 5,26% với 5 loài.
Vào mùa mưa, có 58 loài được ghi nhận. Trong đó,
nhóm loài Rotatoria vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất với 43
loài chiếm 74,14% (Hình 2 b). Số lượng loài ghi nhận
vào mùa khô là 51 loài. Vào mùa khô, chúng ta thấy
có sự giảm mạnh độ đa dạng loài của nhóm Rotato-
ria xuống còn 17 loài. Bên cạnh đó, nhóm Copepoda
cũng có sự tăngmạnh số lượng loài, từ 6 loài (chiếm tỉ
lệ 10,34%) vào mùamưa lên thành 16 loài (chiếm tỉ lệ
31,37%) (Hình 2 c). Các loài Copepoda xuất hiện vào
mùa khô phần lớn là các loài nước mặn như: Acartia
sp., Acartiella sinensis,Calanoides brevicornis,Clauso-
calanus furcatus, Calocalanus minutus, Pseudodiapto-
mus speciosus và Limnoithona sinensis. Các loài này
được ghi nhận xuất hiện tại các điểm BL3 đến BL7.
Điểm BL3 đến BL6 là các điểm bên trong đập, điều
đó cho thấy có sự xâm nhập mặn diễn ra tại “vùng
nước ngọt” phía trong đập. Trong nghiên cứu của
Trần Thành Thái (2018) về tác động của đập Ba Lai
cũng cho thấymặc dù có sự ngăn chặn của đập Ba Lai,
tình trạng xâm nhập mặn vẫn diễn ra ở vùng trong
đập vào mùa khô1. Để giải thích cho sự xâm nhập
mặn vào mùa khô, tác giả đề xuất 2 con đường nước
mặn có thể xâmnhập vào vùng ngọt hóa vàomùa khô:
(1) sự xâm nhập mặn diễn ra do nước mặn trên sông
Tiền theo kênhAnHóa xâmnhập vào sông Ba Lai; (2)
sự xâm nhập mặn diễn ra do cống đập Ba Lai mở ra
mỗi tháng 1 – 2 lần (tùy điều kiện và nhu cầu), tạo điều
kiện cho nước mặn xâm nhập vào bên trong đập1.
Tại các điểm thumẫu, vàomùamưa, điểm có số lượng
loài cao nhất là điểm BL1 với 28 loài. 2 điểm có số
lượng loài thấp nhất là điểm BL5 và điểm BL7 với 12
loài (Hình 3). Vàomùa khô, khi cống đập đóng nhằm
ngăn chặn tình trạng xâm nhậpmặn diễn ra trên sông
Ba Lai đã khiến cho vật chất tích tụ tại điểm BL6. Khi
cống đập mở vào mùa mưa, tuy sự lưu thông nước
giúp pha loãngmột phần vật chất tích tụ tại đây nhưng
hàm lượng vật chất tại đây vẫn cao hơn so với các vị
trí còn lại, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
quần xã phiêu sinh động vật. Vào mùa khô, điểm có
sơ lượng loài cao nhất là điểm BL1 với 18 loài. BL7
là điểm có số lượng loài thấp nhất với 5 loài. Nhóm
777
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(4):776-788
Hình 1: Vị trí các điểm thu mẫu
Bảng 2: Thang điểm đánh giá mức độ bền vững của quần xã PSĐV tương ứng với mức độ nhiễm bẩn 9.
Chỉ số J’ Độ bền vững – Nhiễm bẩn
J’ > 0,8 Quần xã bền vững – Nhiễm bẩn nhẹ.
0,6 < J’ < 0,8 Quần xã kém bền vững – Nhiễm bẩn vừa ở mức b .
0,4 < J’ < 0,6 Quần xã rất kém bền vững – nhiễm bẩn vừa ở mức a.
J’ < 0,4 Quần xã mất bền vững – Rất nhiễm bẩn.
Hình 2: Thành phần loài phiêu sinh động vật tại các điểm thu mẫu a: vào cả 2 mùa, b: vào mùa mưa, c: vào mùa
khô
778
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(4):776-788
chiếm ưu thế về độ giàu loài trong quần xã phiêu sinh
động vật tại các điểm thu mẫu vào mùa mưa là nhóm
Rotatoria. Kết quả này cũng được ghi nhận trong
nghiên cứu của Dương Ngọc Dũng và cộng sự năm
(2008), ngành Rotatoria chiếm tỉ lệ khá cao (24% -
31%) ở các khu vực nước chảy như sông, suối, nhất
là vào mùa mưa10. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim
Liên và cộng sự (2013) cũng cho thấy kết quả khảo
sát tương tự với quần xã phiêu sinh động vật tại vùng
cửa sông Hậu vào mùa mưa11. Rotatoria là nhóm
loài thường chỉ thị cho môi trường giàu chất dinh
dưỡng12, có thể thấy được có hiện tượng phú dưỡng
hóa tại các điểm thu mẫu. Dựa vào Hình 3, chúng ta
có thể thấy có số lượng loài tại các điểm thu mẫu vào
mùa khô thấp hơn so với mùa mưa. Phân tích thống
kê cũng cho thấy có sự khác biệt về mặt thống kê về
số lượng loài giữa 2 mùa mưa và mùa khô (p<0,05).
Nhìn chung ta có thể thấy, trong quần xã phiêu sinh
động vật tại các điểm thu mẫu trên sông Ba Lai, khi
chuyển từ mùa mưa sang mùa khô, nhóm Rotatoria
và nhómCladocera có xu thế giảm đa dạng loài, trong
khi đó, nhómCopepoda và nhóm ấu trùngmức độ đa
dạng loài tăng lên. Phân tích thống kê đa dạng loài các
nhómRotatoria, Cladocera, Copepoda và ấu trùng tại
các điểm thu mẫu giữa 2 mùa mưa và mùa khô cho
thấy có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê với p <
0,05. Điều đó cho thấy đã có sự chuyển biến cấu trúc
quần xã phiêu sinh động vật vào mùa khô. Vào mùa
khô, tại 2 điểm BL1 và BL2, nhóm chiếm ưu thế về
thành phần loài vẫn là nhóm Rotatoria. Tuy nhiên,
mức độ chiếm ưu thế của Rotatoria trong quần xã
phiêu sinh động vật tại 2 điểm này đã có sự sụt giảm.
Tại các điểm còn lại, nhóm chiếm ưu thế về số lượng
loài tại các điểmnày vàomùa khô là nhómCopepoda.
Trong nghiên cứu của Egborge năm 1994 cũng cho
thấy, độ mặn tăng làm giảm số lượng loài Rotatoria13
Theo như đề xuất phía trên, quá trình xâm nhập mặn
diễn ra theo 2 con đường: do nước mặn trên sông
Tiền theo kênh An Hóa chảy vào sông Ba Lai, và do
sự mở cống đập Ba Lai. Theo phân tích thành phần
loài phiêu sinh động vật chúng ta có thể thấy được
sự xâm nhập mặn diễn ra theo cả 2 con đường. Tại
BL1 và BL2 do nước mặn vẫn chưa xâm nhập đến 2
điểm đó nên thành phần loài Rotatoria vẫn chiếm ưu
thế trong quần xã. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy
thành phần loài Rotatoria vào mùamưa đã giảm đi so
với mùa khô, điều đó cho thấy, qua một khoảng thời
gian, điểm BL1 và BL2 sẽ chịu ảnh hưởng của sự xâm
nhập mặn như tại điểm BL3 đến BL6. Tại các điểm
từ BL3 đến BL7 nhóm Copepoda là nhóm có độ đa
dạng loài cao nhất tại các điểm thu mẫu. Tại điểm
BL3, chúng ta chỉ thấy sự xuất hiện của nhóm Cope-
poda và nhóm ấu trùng, tại các điểm còn lại, vẫn có sự
xuất hiện của loài Rotatoria với số lượng loài thấp (chỉ
từ 1 – 2 loài). Điều đó cho thấy BL3 là điểm chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng nhất của tình trạng xâm nhập
mặn. Việc này cho thấy việc xâm nhập mặn có diễn
ra theo con đường số 1 là từ sông Tiền thông quan
kênh An Hóa xâm nhập vào sông Ba Lai. Tại điểm
BL4 chúng ta thấy có sự xuất hiện thêm nhóm Clado-
cera so với điểm BL3. Việc quần xã phiêu sinh động
vật tại đây vẫn có sự xuất hiện của nhóm loài phiêu
sinh động vật nước ngọt cho chúng ta thấy mức độ
nhiễm mặn tại đây thấp hơn so với tại BL3. Tại điểm
BL5 và BL6, vẫn có sự hiện diện của các loài nướcmặn
nhưng ít hơn so với điểm BL7 và BL4. Điều đó cho
thấy vẫn có sự xâm nhập mặn diễn ra tại 2 điểm này.
Điểm BL7 là điểm bên ngoài cống đập, nên tính trạng
xâm nhập mặn sẽ nghiêm trong hơn so với các điểm
còn lại. Tuy nhiên tại điểm này chúng ta lại ghi nhận
có sự xuất hiện của loài thuộc nhóm Rotatoria. Sự
xuất hiện của loài này có thể là do 2 nguyên nhân: do
nguồn nước thải từ các hoạt động nuôi trồng thủy sản
trong vùng hoặc là do việc mở cống xả vàomỗi tháng.
Thêm vào việc ghi nhận có tình trạng xâm nhập mặn
diễn ra tại 2 điểmBL5 và BL6, chúng ta có thể kết luận
nước mặn có thể thông qua sự mở cống vào mùa khô
để xâm nhập vào vùng nước ngọt bên trong đập. Vì
vậy chúng ta có thể kết luận việc xâm nhập mặn trên
sông Ba Lai là từ cả 2 con đường: từ sông Tiền thông
qua kênh AnHóa đổ vào sông Ba Lai và từ vùng ngoài
cống đập xâm nhập vào thông qua việc mở cống.
Mật độ
Mật độ phiêu sinh động vật tại các điểm thu mẫu vào
mùa mưa dao động trong khoảng từ 7818 cá thể/m3
(tại điểm BL3) đến 82.609 cá thể/m3 (tại điểm BL7)
(Bảng 3). Vào mùa khô, mật độ phiêu sinh động vật
ghi nhận được cao nhất tại điểm BL4 thuộc sông Ba
Lai với 155.714 cá thể/m3, thấp nhất ghi nhận được
tại điểm BL3 thuộc sông Ba Lai với 92 cá thể/m3.
Nhìn chung nhóm sinh vật chiếm ưu thế về mật độ
trong các quần xã phiêu sinh động vật tại các điểm
thu mẫu vào mùa mưa là 2 nhóm Rotatoria và Cope-
poda (Hình 4). Ngoại trừ 2 điểmBL4 và BL5 có nhóm
chiếm ưu thế về mật độ phiêu sinh động vật là nhóm
Copepoda, tại các điểm còn lại, nhóm chiếmưu thế về
mật độ trong quần xã phiêu sinh động vật là nhómRo-
tatoria. Rotatoria là nhóm loài phát triển mạnh trong
môi trường giàu chất hữu cơ và phú dưỡng hóa 12,
nên việc nhóm loài Rotatoria chiếm ưu thế về mật độ
và thành phần loài tại các điểm thu mẫu này đã cho
thấy môi trường nước tại đây đã bị phú dưỡng hóa, và
có nguy cơ bị ô nhiễm hữu cơ. Cũng như ghi nhận
về thành phần loài, nhóm chiếm ưu thế tại các điểm
779
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(4):776-788
Hình 3: Số lượng loài phiêu sinh động vật tại các điểm thu mẫu
thu mẫu vào mùa khô là nhóm Copepoda. Tuy nhiên
phân tích thống kê cho thấy không có sự khác biệt
mang ý nghĩa thống kê giữa mật độ Copepoda vào
mùa mưa và mùa khô. Vậy nên nguyên nhân khiến
cho nhóm Copepoda trở thành nhóm chiếm ưu thế
về mật độ trong quần xã không phải là do sụ phát
triểnmạnhmẽ của nhómnày vàomùa khô. Phân tích
thống kê cho thấy có sự khác biệt về mặt thống kê của
2 nhómProtozoa vàRotatoria giữa 2mùamưa vàmùa
khô (p< 0,05). Sự suy giảm mật độ của 2 nhóm Pro-
tozoa và Rotatoria đã cho thấy có sự gia tăng độ mặn
tại các điểm thu mẫu, cụ thể là tại các điểm BL3 đến
BL7. Tại các điểm thumẫu, chúng ta có thể thấy được
sự sụt giảm đáng kể mật độ phiêu sinh động vật vào
mùa khô trừ điểm BL4. Riêng tại điểm BL4, chúng
ta thấy được có sự gia tăng mạnh mẽ mật độ phiêu
sinh động vật vào mùa khô. So với mùa mưa, mật độ
phiêu sinh động vật tại BL4 vào mùa khô cao hơn 2,6
lần so với mùa mưa, mật độ phiêu sinh động vật tại
điểm BL4 đều cao hơn so với các điểm còn lại, chỉ
thấp hơn so với BL1. Vào mùa khô, mật độ phiêu
sinh động vật tại điểm BL4 cao hơn nhiều lần so với
các điểm còn lại (mật độ phiêu sinh động vật tại BL4
cao hơn từ 1692,54 đến 62,19 lần so với các điểm còn
lại). Vào mùa khô, do sự xâm nhập mặn khiễn cho
nhóm Rotatoria suy giảm, và tạo đều kiện cho một số
loài Copepoda thuộcmôi trường nướcmặn và lợ phát
triển. Thêm vào đó, mật độ ấu trùng Nauplius tại đây
vàomùamưa cao (31716 cá thể/m3) tạo điều kiện cho
các loài thuộc nhóm Copepoda phát triển mạnh hơn
vào mùa khô. Phân tích mật độ các loài phiêu sinh
động vật tại điểmBL4 vàomùa khô cũng cho thấy loài
chiếm ưu thế trong quần xã phiêu sinh động vật tại
điểm BL4 vào mùa khô là Acartiella sinensis với tỉ lệ
chiếm ưu thế trong quần xã là 50,46%, cũng gần bằng
với tỉ lệ chiếm ưu thế của ấu trùng Nauplius vào mùa
mưa (tỉ lệ là 53,48%). Thêm vào đó, điểm BL4 là điểm
trung gian giữa cống đập Ba Lai và kênh An Hóa, nên
tốc độ xâm nhập mặn cũng như thay đổi môi trường
chậm hơn so với các điểm còn lại, tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho sự thích nghi và phát triển của quần xã
sinh vật tại điểm BL4.
Bảng 4 thể hiện mật độ phiêu sinh động vật và tỉ lệ
phần trăm của loài ưu thế trong quần xã phiêu sinh
động vật tại các điểm thu mẫu. Phát triển mạnh và
chiếm ưu thế trong quần xã phiêu sinh động vật tại
các các điểm thumẫu vàomùamưa là 2 loài: ấu trùng
Nauplius và Polyarthra vulgaris. Nghiên cứu của Lê
Thị Nguyệt Nga và cộng sự tại các sông thuộc tỉnh
Vĩnh Long cũng cho thấy ấu trùng Nauplius là một
trong các loài chiếm ưu thế tại các con sông thuộc
tỉnh Vĩnh Long14. Tỉ lệ chiếm ưu thế ở mức trung
bình dao động trong khoảng từ 36,2% đến 58,73%.
Hai loài này đều là những loài có phạm vi phân bố
rộng, xuất hiện khá phổ biến trong các thủy vực tự
nhiên. Riêng loài Polyarthra vulgaris là loài thường
phát triển mạnh trong môi trường phú dưỡng hóa,
giàu chất hữu cơ hoặc ô nhiễm ở cấp độ a hoặc b 6,8.
Loài này chiếm ưu thế trong quần xã phiêu sinh động
vật tại điểm BL6. Điều này cho thấy môi trường tại
điểm BL6 có nguy cơ phú dưỡng hóa hoặc ô nhiễm
hữu cơ. Vào mùa khô, loài ưu thế trong quần xã đã
780
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 4(4):776-788
Bảng 3: Mật độ phiêu sinh động vật tại các điểm thumẫu.
Điểm thu
mẫu
BL1 BL2 BL3 BL4 BL5 BL6 BL7
Mùa mưa 32601 10179 7818 59596 55761 48680 82609
Mùa khô 1352 2027 92 155714 2504 1123 1886
Đơn vị: cá thể/m3
Hình 4: Tỉ lệ phần trăm mật độ phiêu sinh động vật thuộc các nhóm trong quần xã phiêu sinh động vật tại các
điểm thu mẫu
có sự thay đổi. Tỉ lệ chiếm ưu thế cũng gia tăng khá
cao dao động trong khoảng từ 36% đến 75%. Tại các
điểm BL3, BL4, BL6 và điểm BL7, chúng ta thấy có
sự thay đổi loài ưu thế. Tại các điểm BL3 và BL4, đều
có sự chiếm ưu thế của loài Acartiella sinensis. Đây
là một loài nước mặn. Mức độ chiếm ưu thế của loài
này tại điểm BL3 cao hơn so với BL4. Điều này cho
thấy có khả năng cao độ mặn tại điểm này cao hơn so
với điểm BL4. Tại điểm BL7 chúng ta cũng thấy có sự
chiếm ưu thế của loài nướcmặn