Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

Tóm tắt. Tác phẩm tự sự có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở trung học phổ thông. Do đó, nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm tự sự luôn là một vấn đề được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như giáo viên. Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp dạy học: Đọc sáng tạo với sự hỗ trợ của video và hình ảnh trực quan; Thuyết trình với sự hỗ trợ của nguồn tư liệu điện tử phong phú và hình thức trình chiếu thuyết trình hấp dẫn; Vấn đáp với nguồn giả thiết phong phú, có tính định hướng cao từ kho tài liệu điện tử và những hình thức trực quan hỗ trợ kích thích tư duy; Làm việc với nguồn tài liệu mở và biện pháp đọc tài liệu khoa học, hiệu quả từ sự hỗ trợ của CNTT; Seminar với nguồn tài liệu mở và hình thức triển khai hoạt động thuyết trình trình chiếu thảo luận sinh động; Tăng cường luyện tập, củng cố thông qua những hình thức vấn đáp sinh động và bài tập trắc nghiệm phong phú được thiết kế bằng các phần mềm chuyên dụng; trên cơ sở phát huy thế mạnh và nhấn mạnh đặc trưng đã được kiểm chứng là một hướng đi có tính hiệu quả và khả thi cao.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 8, pp. 151-160 This paper is available online at BIỆN PHÁP DẠY HỌC TÁC PHẨM TỰ SỰ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Lê Thị Ngọc Anh Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế Tóm tắt. Tác phẩm tự sự có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở trung học phổ thông. Do đó, nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm tự sự luôn là một vấn đề được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như giáo viên. Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp dạy học: Đọc sáng tạo với sự hỗ trợ của video và hình ảnh trực quan; Thuyết trình với sự hỗ trợ của nguồn tư liệu điện tử phong phú và hình thức trình chiếu thuyết trình hấp dẫn; Vấn đáp với nguồn giả thiết phong phú, có tính định hướng cao từ kho tài liệu điện tử và những hình thức trực quan hỗ trợ kích thích tư duy; Làm việc với nguồn tài liệu mở và biện pháp đọc tài liệu khoa học, hiệu quả từ sự hỗ trợ của CNTT; Seminar với nguồn tài liệu mở và hình thức triển khai hoạt động thuyết trình trình chiếu thảo luận sinh động; Tăng cường luyện tập, củng cố thông qua những hình thức vấn đáp sinh động và bài tập trắc nghiệm phong phú được thiết kế bằng các phần mềm chuyên dụng; trên cơ sở phát huy thế mạnh và nhấn mạnh đặc trưng đã được kiểm chứng là một hướng đi có tính hiệu quả và khả thi cao. Từ khóa: Tác phẩm tự sự, Trung học phổ thông, Công nghệ thông tin. 1. Mở đầu Đổi mới dạy học không phải là một vấn đề có tính thời điểm mà là vấn đề thường xuyên, liên tục. Nó gắn liền với hoạt động dạy học và hoạt động nghiên cứu trong khoa học giáo dục như một nhiệm vụ quan trọng luôn có tính cấp thiết. Dạy học tác phẩm tự sự (TPTS), ứng dụng công nghệ thông tin (UDCNTT) vào dạy học, UDCNTT vào dạy học Ngữ văn, dạy học Tiếng Việt, Làm văn. . . là những vẫn đề đã, đang và sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Những công trình của Trần Thanh Đạm [3], Nguyễn Viết Chữ [1], Nguyễn Thanh Hùng [6]. . . đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề xuất những định hướng và biện pháp dạy học TPTS theo đặc trưng thể loại. Đây là những thành tựu lớn của khoa học giáo dục nói chung và phương pháp dạy học văn nói riêng. Chúng không chỉ có giá trị định hướng hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông mà còn có giá trị định hướng các công trình nghiên cứu có liên quan. Vấn đề khai thác những tính năng của công nghệ thông tin (CNTT) hỗ trợ dạy học cũng là địa hạt thu hút nhiều sự quan tâm không chỉ các nhà khoa học trong nước mà cả ở nước ngoài. Ở nước ngoài, nhìn chung các bài báo trên các diễn đàn như [9, 10, 11]. . . đều khẳng định sự cần thiết và tính ưu trội khi UDCNTT vào dạy học như tạo ra các bài thuyết trình đa phương tiện, tạo Ngày nhận bài: 13/04/2014. Ngày nhận đăng: 15/10/2014. Liên hệ: Lê Thị Ngọc Anh, e-mail: ltngocanh82@gmail.com 151 Lê Thị Ngọc Anh ra các sản phẩm học tập đa dạng, kích thích sự tương tác trong lớp học... Họ đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của người học trong quá trình học tập có sử dụng CNTT. Ở trong nước, vấn đề UDCNTT vào dạy học là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu khoa học [8, 6]. Những công trình này chủ yếu xác lập các hình thức và biện pháp khai thác CNTT vào dạy học như khai thác internet để xây dựng thư viện điện tử, soạn giáo án điện tử, trao đổi thông tin . . . Môn Ngữ văn vốn là địa hạt của cảm xúc, của trí tưởng tượng và liên tưởng nên cũng khá kén chọn khi UDCNTT để hỗ trợ dạy học. Nó đòi hỏi quá trình nghiên cứu, ứng dụng phải thận trọng và bám sát đặc trưng môn học, bài học. Nói như thế không có nghĩa là môn học này không thể UDCNTT để hỗ trợ cho việc dạy hoc. Điểm qua các công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu như [5, 7]. . . cho thấy càng khó càng có sự hấp dẫn lớn. Những bài viết này cũng đã khẳng định tính “tất yếu” và tính hữu ích khi UDCNTT vào dạy học Ngữ văn nói chung và Tiếng Việt, Làm văn, Đọc văn (chủ yếu là văn học sử và lí luận văn học). . . Tuy nhiên, vấn đề UDCNTT vào dạy học TPTS chỉ mới được đề cập như một nội dung, một bộ phận cấu thành nên môn Ngữ văn chứ chưa có công trình nghiên cứu độc lập, cụ thể, tập trung. Đặc biệt, các công trình này cũng chỉ tập trung vào vấn đề UDCNTT như là một nội dung trọng tâm nghiên cứu nghĩa là chỉ mới dừng lại những biện pháp, những hình thức khai thác, sử dụng CNTT vào dạy học Ngữ văn nói chung chứ chưa tập trung, nhấn mạnh khả năng cũng như cách thức tích hợp CNTT vào hỗ trợ các hoạt động, biện pháp dạy học cụ thể. Chúng tôi nghiên cứu những biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin hướng đến một đối tượng quan trọng, vừa có tính ổn định vừa có tính “không hoàn kết” - TPTS; đặt nền tảng khoa học trên những nguyên lí chung như tích hợp, thể loại, phát triển năng lực, phát huy vai trò chủ thể học sinh (HS). . . ; khai thác CNTT như một công cụ hữu ích cho hoạt động dạy học cũng là một ứng dụng không thể cũ bởi tự bản thân nó luôn đổi mới; từ đó đề xuất hệ thống những biện pháp dạy học với sự hỗ trợ của CNTT một cách cụ thể, chặt chẽ, đặc biệt nhấn mạnh đến sự phối kết hợp giữa các biện pháp dạy học TPTS với các ứng dụng hỗ trợ của CNTT. Ở đây, CNTT chỉ đóng vai trò hỗ trợ tích cực, sự hỗ trợ này có khi trực tiếp có khi gián tiếp tham gia vào các biện pháp dạy học. Do đó, đây là một vấn đề vừa có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn vừa có tính thời sự tương đối bền vững. 2. Nội dung nghiên cứu Có nhiều hình thức khai thác sự hỗ trợ của CNTT trong dạy học như: xây dựng thư viện điện tử phục vụ hoạt động dạy và học; khai thác, mở rộng mạng lưới tri thức có liên quan đến nội dung kiến thức môn học, bài học; trao đổi, thu nhận thông tin phản hồi giữa GV - HS, HS - HS; tổ chức hoạt động dạy học ở lớp. . . Những hình thức này sẽ được chuyển hoá, cụ thể hóa trong những biện pháp khai thác CNTT trong dạy học Ngữ văn sau: Tích hợp các file âm thanh, video hỗ trợ hoạt động đọc, Trình chiếu các tư liệu ngoài sách giáo khoa (qua kênh hình, chữ và âm thanh) nhằm mở rộng, liên hệ, so sánh; phục vụ cho hoạt động giảng - bình, phát vấn, thảo luận. . . , Xây dựng các mô hình, biểu bảng, các sơ đồ tư duy khái quát kiến thức, xác lập các mối quan hệ trong và ngoài tác phẩm nhằm phát hiện và phát triển kiến thức, Thiết kế đa dạng các hình thức bài tập, trò chơi nhằm luyện tập - củng cố, kiểm tra - đánh giá, Thiết kế giáo án điện tử hay các trang trình chiếu nội dung cơ bản của bài học có sự tích hợp các tính năng màu sắc, hiệu ứng, vẽ sơ đồ, bảng biểu, Thiết kế CD, lập Web . . . Trên cơ sở những hình thức khai thác CNTT phù hợp với hoạt động dạy học đã gợi ý, những biện pháp khai thác CNTT trong dạy học Ngữ văn đã đưa ra, tác giả đề xuất những biện pháp dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT. Thực chất đây là sự phối hợp giữa biện pháp dạy học và biện 152 Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường Trung học phổ thông với sự hỗ trợ... pháp khai thác CNTT hay chính xác hơn chính là sự tích hợp biện pháp khai thác CNTT vào biện pháp dạy học nhằm thực hiện các hoạt động dạy - học TPTS một cách hiệu quả, khách thể hóa, hiện thực hóa đặc trưng TPTS và sức mạnh của CNTT. Đọc sáng tạo với sự hỗ trợ của video và hình ảnh trực quan: Đọc là một hoạt động tất yếu, không thể thiếu khi dạy học văn. “Đọc sáng tạo” tự thân tên biện pháp đã khẳng định đây không phải là hoạt động vật lí thông thường mà là một hoạt động cảm thụ nghệ thuật, nhấn mạnh sự cảm nhận trực tiếp, đòi hỏi năng lực tiếp nhận, cảm thụ cũng như nghệ thuật giao tiếp, giãi bày, thể hiện hình tượng nghệ thuật. . . Điều này có nghĩa là, để đọc sáng tạo trở thành một biện pháp cảm thụ tác phẩm HS phải cảm và hiểu được tác phẩm, phải có ý tưởng trong việc thể hiện cách cảm hiểu của mình và năng lực thể hiện trực tiếp bằng ngôn ngữ cũng như các yếu tố phi ngôn ngữ. Qua đó, người đọc thể hiện sự cảm nhận mang tính cá nhân của mình theo một cách riêng. Như vậy, với đọc sáng tạo, CNTT không tham gia trực tiếp, nó không thể thay thế hoạt động đọc của GV và HS nhưng nó sẽ hỗ trợ, kích thích để thúc đẩy cá nhân mạnh dạn cũng như có thêm ý tưởng để thể hiện hoạt động đọc một cách sáng tạo. Trong dạy học TPTS, việc đọc tác phẩm nói chung, đọc sáng tạo nói riêng có vai trò hết sức quan trọng và cũng là thử thách đối với cả GV và HS bởi chính độ dài về dung lượng và sự phức tạp về cấu trúc. Thông thường ở lớp, HS chỉ tóm tắt lại tác phẩm, nhấn mạnh các sự kiện chính và đọc một số đoạn văn hay. Do phụ thuộc vào hoạt động đọc ở nhà nên nhiều khi việc tổ chức đọc ở lớp thiếu linh hoạt nên khó thể hiện được sự sáng tạo. Với CNTT, đọc sáng tạo sẽ được thúc đẩy, phát huy với các hình thức hỗ trợ như sau: - Nghe các nghệ sĩ đọc qua các phương tiện hiện đại, GV cũng có thể đọc mẫu, thu âm và sử dụng nhiều lần. Hoạt động đọc mẫu chỉ cần triển khai ở những đoạn văn hay, giàu chất trữ tình hay triết lí hoặc những đoạn văn tập trung giá trị sáng tạo để tạo dấu ấn và tính xúc cảm cho giờ học. - Xem các trích đoạn phim đã được chuyển thể từ tác phẩm, xem các hình ảnh chân dung nhân vật. . . Với những trích đoạn này sẽ giúp HS khắc sâu ấn tượng về tình huống truyện độc đáo, về sự kiện, chi tiết đắt giá hay chắp cánh cho những liên tưởng, tưởng tượng của HS - Sơ đồ hóa cốt truyện, mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện chính cũng là hình thức nâng cao hiệu quả hoạt động đọc. Đặc biệt, với CNTT, GV có thể tích hợp vào sơ đồ các hình ảnh hoặc các liên kết để dễ dàng hơn trong việc nhấn mạnh các sự kiện, chi tiết nổi bật. Những ứng dụng này sẽ được kết hợp với hoạt động đọc trực tiếp của GV, HS; hỗ trợ cho hoạt động đọc trực tiếp trên lớp thêm hiệu quả và có khả năng sáng tạo. Để có thể đọc sáng tạo với sự hỗ trợ của CNTT, cả GV và HS cần tự trang bị các tiền đề tiếp nhận, giúp cho việc đọc hiểu văn bản đạt kết quả cao. Hơn nữa, cần có sự tham khảo cách đọc mẫu của các nghệ sĩ để tạo cảm hứng, kích thích sự sáng của cá nhân. . . Thuyết trình với sự hỗ trợ của nguồn tư liệu điện tử phong phú và hình thức trình chiếu thuyết trình hấp dẫn: Là một biện pháp pháp dạy học phổ biến, quen thuộc và nhiều khi bị “gán mác” kém tích cực bởi đặc trưng của biện pháp này là dùng lời để thông báo kiến thức. Nhưng xét về bản chất, có thể khẳng định dạy học không thể thiếu thuyết trình, đặc biệt đối với môn văn thì cũng có thể xem là một trong những biện pháp đặc thù. Vấn đề là sử dụng thuyết trình như thế nào, mức độ ra sao, phối kết hợp với những biện pháp gì, phương tiện gì. . . Mục đích chính của thuyết trình là thông báo nhưng không phải mọi sự thông báo đều tiêu cực: thông báo để cùng lúc có thêm nhiều kiến thức mới, để hiểu thêm về kiến thức khó, làm cơ sở quá trình cảm nhận và tư duy; thông báo để tổng kết, hồi cố và dự báo; thông báo kiến thức để hỗ trợ các hoạt động phát vấn, thảo luận,. . . trở nên dễ dàng và hiệu quả; thuyết trình còn tạo nên không khí cảm xúc cho 153 Lê Thị Ngọc Anh giờ học văn, tiết kiệm thời gian mà lại rất hệ thống, đầy đủ, khoa học... Hơn nữa, bản thân biện pháp thuyết trình nếu thực hiện tốt cũng rất đắc dụng trong việc tích cực hóa hoạt động tư duy của người học. Thuyết trình cũng không đơn thuần là sự tuôn trào của câu chữ mà còn là biện pháp tư duy và kĩ năng trình bày. Thay vì GV độc diễn, độc quyền hãy giao quyền cho HS, để người học trở thành “người dạy”. Rõ ràng, hiểu theo chiều hướng này thì thuyết trình lại là một trong những biện pháp có thể mang lại hiệu quả tích cực, nhất là khi dạy văn qua “làm”, qua “diễn”, qua tự cảm thụ và giãi bày,. . . của chính chủ thể học sinh. Với sự hỗ trợ của CNTT, thuyết trình trong dạy học nói chung và TPTS nói riêng lại có một thế mạnh riêng, khắc phục được những hạn chế thường gặp trong biện pháp thuyết trình truyền thống như dễ nhàm chán, mất tập trung, thậm chí gây căng thẳng nếu phải nghe quá lâu, khó huy động tư liệu, HS thụ động tiếp nhận thông tin, khó nhớ và dễ quên . . . Thuyết trình ở đây không chỉ là sự chuyển giao kiến thức một cách đơn giản bằng kênh lời mà CNTT cho phép phối hợp kênh hình và kênh chữ, ngôn ngữ và hình ảnh, ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói hết sức sinh động, cho phép cùng lúc GV có thể huy động, liên hệ, mở rộng nhiều phạm trù kiến thức khác nhau một cách dễ dàng để HS không những có thêm kiến thức phong phú, đa dạng mà còn rèn luyện được các thao tác tư duy như liên hệ, so sánh, phân tích, chứng minh. . . Học sinh sẽ hứng thú, tích cực hơn với hình thức thuyết trình này, không chỉ bởi cách trình bày ấn tượng hơn mà chính bởi biện pháp này đã thực sự tác động vào tư duy, đáp ứng nhu cầu tìm tòi, hiểu biết của HS lứa tuổi THPT. Chính vì thế, Trần Bá Hoành đã chỉ ra rằng, “sử dụng các phương tiện CNTT làm tăng sức hấp dẫn và hiệu quả của bài diễn giảng” là một trong những biện pháp để “đổi mới bài diễn giảng” [5, tr. 134]. Biện pháp thuyết trình với sự hỗ trợ của CNTT trong tổ chức dạy học TPTS có thể được sử dụng với những hình thức như sau: - Thuyết trình - phô diễn: đây là hình thức thuyết trình đơn giản nhất, phối hợp nhịp nhàng giữa kênh hình, kênh chữ và kênh tiếng; giữa trình chiếu tư liệu và thuyết giảng thông báo. Mục đích chủ yếu là cung cấp, liên hệ, mở rộng, giải thích thông tin, khái niệm. . . làm cơ sở cho hoạt động tiếp nhận được sâu sắc và phong phú hoặc chứng minh, làm sáng rõ cho những nhận định khái quát về tác giả, tác phẩm. Hình thức này cũng không có nghĩa là HS thụ động “hứng” thông tin mà người thuyết trình phải đa dạng hóa nội dung cũng như cách thức thuyết trình dưới những hình thức tích cực như thuyết trình tích hợp, thuyết trình nêu vấn đề,... để HS tiếp nhận kiến thức một cách chủ động và có tư duy phê phán. + Thuyết trình tích hợp: là hình thức thuyết trình có sự tích hợp về cả kiến thức lẫn kĩ năng. Với sự hỗ trợ của CNTT, GV có thể linh hoạt phối kết hợp nhiều phạm trù kiến thức khi dạy học TPTS như các thông tin về cuộc đời, sự nghiệp nhà văn, kiến thức lí luận văn học, văn học sử,. . . qua kênh chữ (GV tóm tắt nội dung cần tích hợp và trình chiếu), kênh hình (những đoạn phim tư liệu về nhà văn, về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. . . ). . . giúp cho việc tiếp nhận tác phẩm vừa mang tính khoa học vừa đậm tính cảm xúc; làm cơ sở cho việc hình thành kĩ năng đọc văn. Bên cạnh đó, GV cũng dễ dàng “phô diễn” kĩ năng thuyết trình của mình (bao gồm việc chọn lọc kiến thức, tổ chức kiến thức, và trình bày kiến thức. . . ) để HS có thể học tập và rèn luyện. + Thuyết trình nêu vấn đề là hình thức thuyết trình ngoài đích thông báo nó còn kèm cả minh họa, mô tả kiến thức làm nảy sinh vấn đề thắc mắc rồi yêu cầu học sinh tham gia ý kiến, lí giải...; giáo viên “không thông báo tri thức khoa học dưới dạng có sẵn, mà phục hồi - ở mức độ nhất định – con đường các nhà khoa học đã trải qua để phát hiện các tri thức đó. Sau khi đề xuất vấn đề, giảng viên lần lượt trình bày các cách giải quyết vấn đề, phân tích mâu thuẫn trong những cách giải quyết đó để đi đến những cách giải quyết khác hợp lí hơn” [5, tr. 132]. Qua đó, HS vừa 154 Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường Trung học phổ thông với sự hỗ trợ... lĩnh hội thông tin vừa phải tư duy để học cách xử lí và sử dụng thông tin để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Thuyết trình phô diễn có thể sử dụng trong các tình huống dạy học TPTS như sau: - Tìm hiểu, mở rộng kiến thức về tác giả, tác phẩm như hoàn cảnh gia đình, quê hướng, những dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời,... có ảnh hưởng đến sáng tác, về hoàn cảnh sáng tác hay hiện thực khách quan làm đề tài cho tác phẩm. . . - Bổ sung, cắt nghĩa những kiến thức văn học sử, lí luận văn học có liên quan đến tác phẩm đang học, kiến thức về văn hóa, địa lí, lịch sử,... làm tri thức đọc hiểu văn bản, nhất là các tri thức về tự sự học vẫn còn khá mới mẻ đối với cả GV và HS . - Bình giảng, lí giải những chi tiết, tình huống độc đáo,. . . kết hợp với các hình ảnh minh họa. Ngoài ra, thuyết trình phô diễn cũng hỗ trợ quá trình tổ chức đọc hiểu văn bản qua các khâu chuyển tiếp, hồi cố, dự báo. . . Những hoạt động này với sự hỗ trợ của CNTT cũng trở nên sinh động và thu hút. Bên cạnh tích cực hóa bản thân biện pháp thuyết trình theo các hình thức trên, biện pháp này có thể sử dụng một cách linh hoạt và hiệu quả bằng cách kết hợp với biện pháp dạy học khác, tiêu biểu là hình thức thuyết trình - phát vấn. - Thuyết trình - phát vấn: Với hình thức này, việc thuyết trình không còn là một biện pháp thụ động như lâu nay vẫn nghĩ. Phát vấn là một hoạt động tích cực, thường xuyên trong dạy học nói chung và dạy học văn nói riêng. Thuyết trình - phát vấn tức là sự kết hợp hai hoạt động thuyết trình và phát vấn, trong đó lấy nội dung thuyết trình trình chiếu làm cơ sở. Thuyết trình kết hợp trình chiếu để cung cấp kiến thức cho HS, làm cơ sở cho hoạt động phát vấn. Phát vấn để tập trung chú ý, để nhấn mạnh vấn đề và đặc biệt để kích thích tư duy trên nền tảng dữ liệu đã cung cấp; từ đó HS chiếm lĩnh kiến thức một cách có chủ đích, có biện pháp, hình thành năng lực tư duy khoa học và năng lực cảm thụ nghệ thuật. Học sinh không chỉ nghe mà còn phải quan sát, tư duy, khái quát, phân tích và tổng hợp để tìm ra câu trả lời phù hợp. Học sinh không chỉ xử lí kiến thức trong sách giáo khoa, kiến thức của bài học cụ thể đang học mà phải vận dụng, xử lí nhiều kiến thức khác nhau trong mối quan hệ được trình chiếu mở rộng để giải quyết nhiệm vụ học tập đang đặt ra. Với TPTS, do tính chất đa dạng, phức tạp về nội dung nên trong quá trình dạy học, đây cũng là một biện pháp hữu ích, phù hợp để người thuyết trình có thể dẫn dắt vấn đề được sáng rõ. Có thể thực hiện thuyết trình kết hợp phát vấn như sau: - Thuyết trình cung cấp tri thức đọc hiểu - phát vấn định hướng tiếp nhận - Thuyết trình cung cấp ngữ liệu - phát vấn định hướng so sánh, liên hệ liên văn bản nhằm mục đích nhấn mạnh đặc trưng của nội dung bài học như so sánh các hình tượng nhân vật, so sánh nghệ thuật trần thuật... - Thuyết trình phân tích, bình giảng tác phẩm - phát vấn dẫn dắt liên hệ thực tế Điều đáng lưu ý là, sau các câu hỏi phát vấn như là một sự định hướng, gợi mở, dẫn dắt vấn đề, GV có thể chuyển tiếp để thuyết trình tiếp hoặc cho HS nêu ý kiến ngắn gọn rồi thuyết trình kết luận. Những nội dung làm dữ liệu phát vấn này có thể được trình bày qua kênh chữ, hình, âm thanh, video hoặc các sơ đồ tư duy được thiết kế bởi các phần mềm chuyên dụng như Mindmap. Hoạt động phát vấn trong biện pháp này có thể nhằm đúng mục đích hỏi - đáp (nhanh - ngắn) hỗ trợ cho hoạt động thuyết trình hoặc cũng có thể GV nêu câu hỏi như một sự dẫn dắt, định 155 Lê Thị Ngọc Anh hướng, gợi mở cho hoạt động thuyết trình. Dù với mục đích gì thì biện pháp thuyết trình được thực hiện dưới hình thức này sẽ trở nên tích cực hơn và tác động vào nhận thức cảm thụ của HS nhiều hơn. CNTT hỗ trợ biện pháp này chủ yếu là cung cấp, mở rộng tư liệu; trình bày nội dung thuyết trình hấp dẫn, sáng rõ; thu hút, tập trung sự chú ý của HS vào nội dung thuyết trình, kích thích tư duy; tích hợp rèn luyện kĩ năng. . . Do đó, nó là một phương tiện hỗ trợ tích cực để việc thực hiện thuyết trình dễ dàng hơn, hấp dẫn hơn và hiệu quả hơn. Với CNTT, thuyết trình không còn là một biện pháp dạy học thụ động, bài thuyết trình không chỉ là sự nối tiếp của câu chữ nhàm chán mà là bài thuyết trình đa phương tiện, không chỉ có chức năng thông báo mà đa chức năng và vì thế cũng dễ đạt kết quả có tính tích hợp. Cần chú ý rằng, bên cạnh hình thức trình chiếu thuyết trình của GV thì việc khuyến khích hoạt động học dưới dạng trình chiếu thuyết trình của HS cũng được coi là một hướng tích cực hóa biện pháp này. Sử dụng biện pháp thuyết trình cần chú ý chọn lọc thông tin sao cho vừa ngắn gọn, vừa trọng tâm, sát hợp với nội dung bài học, phù hợp tâm lí lứa tuổi và đặc biệt là phải đắc dụng. Trong quá trình thuyết trình, GV cũng cần chú ý đa dạng hóa các hình thức lập luận để hình thành các kĩ năng tư duy cho HS. Có thể thuyết trình theo kiểu quy nạp, diễn dịch hoặc song hành nhằm dự báo, hồi cố hoặc chứng minh, mở rộng, nâng ca