Tóm tắt. Hình thức tổ chức dạy học thực hành kĩ thuật (THKT) thông qua các hoạt
động tương tác, giữa ba nhân tố chính trong hệ dạy học là người học, người dạy và
môi trường dạy học. Đặc biệt với với nhân tố môi trường có chứa đựng nội dung
dạy học, không chỉ ảnh hưởng đến người dạy, người học, mà điều quan trọng là làm
thay đổi người học, người dạy nhằm đảm bảo sự thích nghi của người học, người
dạy với môi trường và ngược lại chính người dạy, người học cũng làm môi trường
thay đổi. Để các cặp tương tác diễn ra tích cực, người dạy cần biết khai thác, vận
dụng các biện pháp cụ thể như: chẩn đoán về người học, đưa người học vào làm
việc trong môi trường tri thức, tạo khung kiến thức cơ bản đối với nhu cầu người
học, khuyến khích người học độc lập học tập, đảm bảo cho người học khả năng tiếp
cận công cụ, phát triển kĩ năng thảo luận, người dạy chú ý tác động vào vùng phát
triển gần của người học.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp tăng cường tính tương tác tích cực trong dạy học thực hành kỹ thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci. 2012, Vol. 57, No. 4, pp. 48-56
BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH TƯƠNG TÁC TÍCH CỰC
TRONG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT
Nguyễn Cẩm Thanh∗ và Nguyễn Văn Khôi
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
∗E-mail: camthanhsp@gmail.com
Tóm tắt. Hình thức tổ chức dạy học thực hành kĩ thuật (THKT) thông qua các hoạt
động tương tác, giữa ba nhân tố chính trong hệ dạy học là người học, người dạy và
môi trường dạy học. Đặc biệt với với nhân tố môi trường có chứa đựng nội dung
dạy học, không chỉ ảnh hưởng đến người dạy, người học, mà điều quan trọng là làm
thay đổi người học, người dạy nhằm đảm bảo sự thích nghi của người học, người
dạy với môi trường và ngược lại chính người dạy, người học cũng làm môi trường
thay đổi. Để các cặp tương tác diễn ra tích cực, người dạy cần biết khai thác, vận
dụng các biện pháp cụ thể như: chẩn đoán về người học, đưa người học vào làm
việc trong môi trường tri thức, tạo khung kiến thức cơ bản đối với nhu cầu người
học, khuyến khích người học độc lập học tập, đảm bảo cho người học khả năng tiếp
cận công cụ, phát triển kĩ năng thảo luận, người dạy chú ý tác động vào vùng phát
triển gần của người học.
Từ khóa: Tương tác, tích cực, thực hành kĩ thuật.
1. Mở đầu
Trong quá trình dạy học THKT dù được thực hiện theo quan điểm dạy học nào thì
cũng đều có quá trình tương tác giữa ba nhân tố là người học, người dạy và môi trường
dạy học. Nhưng việc quan tâm tới các cặp tương tác (sự tác động qua lại giữa các nhân tố
nói trên) để tương tác được diễn ra theo chủ định thì chưa được xem xét đúng mức, chưa
có những biện pháp cụ thể để tương tác tích cực, hướng đến việc nâng cao chất lượng của
quá trình dạy học.
Xem xét chức năng, nhiệm vụ của dạy học THKT với dạy học lí thuyết kĩ thuật luôn
bổ sung, thống nhất với nhau, thay đổi và kế thừa nhau trong đào tạo nghề kĩ thuật. Dạy
học THKT cần quan tâm đến cả hai loại hình hoạt động: thực hành trí tuệ và thực hành vật
chất. Hình thức tổ chức dạy học THKT thông qua các hoạt động tương tác giữa ba nhân
tố chính trong hệ dạy học là người học, người dạy và môi trường dạy học. Trong đó môi
trường dạy học chỉ xem xét ở phạm vi trong lớp học nó chứa đựng cả nội dung dạy học.
Như vậy, môi trường là một trong những tác nhân chủ yếu của quá trình dạy học. Các hoạt
động tương tác cần tích cực nhờ vào các biện pháp cụ thể như: chẩn đoán về người học;
48
Biện pháp tăng cường tính tương tác tích cực trong dạy học thực hành kỹ thuật
đưa người học vào làm việc trong môi trường tri thức; tạo khung kiến thức cơ bản đối với
nhu cầu người học; khuyến khích người học độc lập học tập; đảm bảo cho người học khả
năng tiếp cận công cụ; phát triển kĩ năng thảo luận; người dạy chú ý tác động vào vùng
phát triển gần của người học.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm
2.1.1. Dạy học thực hành kĩ thuật
Thực hành là: "Làm để cho thành sự thực; bắt tay vào việc áp dụng thực sự lí thuyết
đã học" [6;711].
Trong dạy học kĩ thuật, thực hành được hiểu là: "Thực hành là hoạt động của học
sinh nhằm vận dụng những hiểu biết kĩ thuật và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cần thiết" [3;12].
Hoạt động thực hành có hai dạng cụ thể trong mối quan hệ tương hỗ: hoạt động
thực hành trí tuệ; hoạt động thực hành vật chất.
Dạy thực hành kĩ thuật là một quá trình giáo dục và giáo dưỡng được tổ chức có
kế hoạch cho việc học tập và lao động. Quá trình dạy học thực hành cùng với quá trình
dạy học lí thuyết và hoạt động ngoài giờ, tạo thành một thể thống nhất trong đào tạo.
Việc phân chia tương đối quá trình dạy học trong đào tạo như vậy là dựa vào chức năng,
nhiệm vụ của dạy lí thuyết và dạy thực hành. Chúng được bổ sung, thống nhất với nhau,
thay đổi và kế thừa nhau. Hiện nay Việt Nam đang có xu hướng thực hiện thống nhất quá
trình dạy học lí thuyết chuyên môn kĩ thuật với quá trình dạy học thực hành kĩ thuật (tích
hợp lí thuyết với thực hành). Hình thức đào tạo theo Môdul và MES (Module Employable
Skylls) đang triển khai thực hiện giữa dạy lí thuyết và dạy thực hành gắn bó chặt chẽ với
nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau về mục tiêu trong phương pháp lĩnh hội, nhận thức đối với
các tri thức lí thuyết và các kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp vẫn tồn tại khách quan trong quá
trình dạy học kĩ thuật.
Thực tế từ trước đến nay, đa số người dạy nhìn nhận việc dạy học THKT chỉ tồn tại
ở góc độ hoạt động thực hành vật chất. Nhưng ngày nay khoa học kĩ thuật, công nghệ phát
triển mạnh mẽ đã làm xuất hiện những hoạt động khó tách bạch giữa hoạt động thực hành
vật chất và hoạt động thực hành trí tuệ; vì vậy dạy học thực hành kĩ thuật cần được xem
xét nhiều đến hoạt động thực hành trí tuệ và mối liên hệ giữa hai loại hình hoạt động này.
2.1.2. Dạy học tương tác tích cực
Xem xét vai trò, mối liên hệ qua lại giữa ba nhân tố: người học, người dạy, môi
trường:
- Người học (học sinh/sinh viên) cần xác định là người tích cực, chủ động dùng tất
cả năng lực cá nhân để lĩnh hội và tự điều khiển quá trình lĩnh hội tri thức, kĩ năng và thái
độ mới. Người học giữ vai trò tác nhân chính quyết định chất lượng của quá trình đào tạo.
49
Nguyễn Cẩm Thanh và Nguyễn Văn Khôi
Như vậy, người học cần có hoạt động học theo đúng bản chất của nó.
Hoạt động học chính là hoạt động hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở người học, tiếp
thu những tri thức lí luận, khoa học, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, việc tiếp thu cả những tri
thức của chính bản thân hoạt động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học
phải biết cách học, phương pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân
hoạt động học. Để có được hoạt động học thì trước hết ở người học phải có động cơ, mục
đích, hứng thú học tập từ đó hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được
hiểu là hành động thao tác trí tuệ, vật chất, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Các
hành động học điển hình, cơ bản đó là: hành động phân tích, tổng hợp, so sánh, liên hệ,
khái quát hóa, hành động mô hình hoá, hành động cụ thể hoá (nhằm vận dụng giúp người
học hiểu được rõ nhất bản chất của vấn đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ
thể từng lĩnh vực).
- Người dạy dùng kiến thức, kinh nghiệm của mình hướng dẫn người học. “Người
dạy chỉ cho người học cái đích phải đạt, giúp đỡ, làm cho người học hứng thú học và đưa
họ tới đích. Chức năng chính của người dạy là giúp đỡ người học chiếm lĩnh các tri thức,
hình thành kĩ năng và kĩ xảo. Người dạy phục vụ người học” [7;18].
- Môi trường dạy học rất đa dạng và phong phú, bao gồm môi trường bên trong
(tiềm năng, giá trị, cảm xúc...), môi trường bên ngoài (thầy, bạn, gia đình, xã hội, không
gian thời gian...). Như vậy "Môi trường là toàn bộ các yếu tố và các điều kiện bao quanh,
ảnh hưởng, chi phối đến người dạy, người học" [8;118]. Do vậy, môi trường đã trở thành
một trong những tác nhân của quá trình dạy học.
Đặc điểm của quá trình dạy học tương tác tích cực:
- Người học được đặt vào vị trí trung tâm của quá tình dạy học, tính tích cực nhận
thức của chủ thể (người học) phải được khơi dậy, duy trì trong suốt quá trình học tập. Nó
được biểu hiện ở sự hứng thú (tập trung chú ý, khắc phục khó khăn và sự cố gắng cao về
hoạt động trí tuệ và hành động vật chất...); ở sự chuyển yêu cầu thành nhu cầu và ham
muốn, thành động cơ mục đích học tập, ở sự chủ động tham gia giải quyết các nhiệm vụ
học tập của mỗi người học. Tự học, nhờ sự giúp đỡ ở người dạy, thông qua tài liệu, học
hỏi bạn bè.
- Xảy ra sự tương tác nhiều chiều giữa các nhân tố cơ bản thuộc hệ thống dạy học
(người dạy, người học, nội dung học tập...) thông qua các hình thức trao đổi, thảo luận,
làm việc với tài liệu học tập, tự kiến tạo kiến thức... nghĩa là ở đây có sự kết hợp nhiều
phương pháp dạy học khác nhau (diễn giảng, đàm thoại, trực quan, thí nghiệm - thực hành,
tình huống, giải quyết vấn đề...).
Vậy, có thể hiểu việc dạy học theo quan điểm dạy học tương tác tích cực là:
Dạy học tương tác tích cực là quá trình dạy học có quá trình tương tác nhiều chiều
giữa ba nhân tố chủ đạo gồm thầy, trò và môi trường dạy học, trong đó trò là trung tâm
được khơi dậy tính tích cực, thầy là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ trò thực hiện nhiệm
vụ học tập, môi trường đóng vai trò ảnh hưởng, thích nghi đến thầy và trò.
50
Biện pháp tăng cường tính tương tác tích cực trong dạy học thực hành kỹ thuật
Dạy học tương tác tích cực nhằm cải tiến quá trình dạy học theo hướng nâng cao
chất lượng dạy học thông qua cách dạy của người dạy (làm cho cách dạy phù hợp với cách
học), tạo hứng thú và trách nhiệm học tập của người học. Do đó cũng cần quan tâm nhiều
về cách học của người học.
Sự tương tác có cấu trúc cơ bản gồm: tác động, phản ứng của các chủ thể tham gia
tương tác. Sự tương tác là tích cực khi cách thức tác động và phản ứng này tạo nên sự chủ
động, tự giác, tích cực của các chủ thể tham gia: cả người dạy và người học trong một môi
trường phù hợp.
Như vậy, dạy học tương tác tích cực đặc biệt làm gia tăng giá trị các mối quan hệ
tác động qua lại tồn tại giữa người dạy, người học và môi trường trong quá trình dạy học.
Sự tham gia đa dạng của ba tác nhân này là nguồn của các mối quan hệ năng động giữa
chúng, là yếu tố đặc trưng nhất của dạy học tương tác tích cực.
2.1.3. Môi trường trong dạy học tương tác tích cực
Môi trường không phải là một yếu tố tĩnh, bất động mà phải là một nhân tố thuộc
cấu trúc hoạt động dạy học, nó không chỉ ảnh hưởng đến người dạy, người học, điều quan
trọng là nó làm thay đổi người học, người dạy nhằm đảm bảo sự thích nghi của người dạy,
người học với môi trường và ngược lại chính người dạy, người học cũng làm thay đổi môi
trường [8;118].
Thực tiễn rất khó để khai thác tất các các yếu tố của môi trường nói chung, bởi nhìn
nhận môi trường một cách toàn diện cho thấy môi trường rất rộng và phong phú. Vì vậy,
ở bài viết này chỉ có thể xem xét môi trường dạy học trong lớp học, nhận thấy có hai yếu
tố chính của sự tương tác là hoạt động dạy tương ứng hoạt động học, sẽ kéo theo sự thay
đổi các yếu tố khác thuộc cấu trúc hoạt động dạy học, tạo nên chất lượng mới cho cả hệ
dạy học.
Hoạt động dạy và hoạt động học phải dựa vào nội dung dạy học. Thực chất nội dung
dạy học là thành phần đã được đúc kết, rút ra từ những "kinh nghiệm" xã hội qua việc hệ
thống hóa, khái quát hóa thành "văn hóa". Vì vậy: nội dung dạy học là một bộ phận thuộc
môi trường dạy học
Người dạy tổ chức hoạt động dạy sẽ có dự liệu trước về điều kiện môi trường cho
phù hợp (xắp xếp bàn ghế, chuẩn bị tài liệu học tập, phương tiện trực quan, phương tiện
thiết bị kĩ thuật phục vụ dạy - học...) với nội dung học tập. Trong quá trình dạy - học
người dạy có thể tác động, điều chỉnh môi trường theo nội dung học tập, nhịp độ học tập
(thay đổi bầu không khí lớp học, cung cấp thêm tư liệu dạy học cần thiết, kích thích tính
tò mò...).
Như vậy, có thể hiểu môi trường trong dạy học tương tác tích cực như sau:
Môi trường dạy học là nhân tố thuộc cấu trúc hoạt động dạy học, nó không chỉ ảnh
hưởng đến người dạy, người học, mà điều quan trọng là làm thay đổi người học, người dạy
nhằm đảm bảo sự thích nghi của người học, người dạy với môi trường và ngược lại chính
51
Nguyễn Cẩm Thanh và Nguyễn Văn Khôi
người dạy, người học cũng làm môi trường thay đổi.
2.2. Các cặp tương tác trong dạy học thực hành kĩ thuật
Công cụ để thực hiện tương tác có thể là ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ, cách ứng xử,
ký hiệu, chữ viết... Nội dung tương tác là các vấn đề thuộc nhiệm vụ học tập. Mục đích
tương tác rõ ràng, được tổ chức và phân công trách nhiệm, đặc biệt diễn ra nhiều chiều,
mỗi thành viên tham gia phải tích cực.
Các cặp tương tác gồm:
- Người dạy⇔ người học
- Người học⇔ bạn học
- Người học⇔ bản thân người học
- Môi trường dạy học⇔ người học
- Môi trường dạy học⇔ người dạy.
Người dạy⇔ người học, đây là cặp tương tác phổ biến nhất vốn luôn tồn tại trong
quá trình dạy học. Nhưng mức độ được quan tâm như thế nào để tương tác tích cực thì cần
phải làm rõ, cụ thể trong từng hoạt động dạy tương ứng với hoạt động học. Ban đầu việc
tác động của người dạy đến người học bằng nhiều biện pháp (gây hứng thú, đặt ra yêu
cầu, nhiệm vụ thực hiện, câu hỏi, tạo tình huống,...). Người học bằng phương pháp học
của mình, tổng hợp các hành động học, phản hồi đến người dạy những thông tin thể hiện
qua ngôn ngữ, bằng bình luận, các câu hỏi hoặc thể hiện dưới dạng phi ngôn ngữ như thái
độ, cử chỉ hay cách ứng xử,... Khi đó, người dạy phản ứng bằng cách cung cấp cho người
học những thông tin hỗ trợ, trả lời hoặc gợi ý các câu trả lời cho các câu hỏi do người học
đặt ra, điều chỉnh PPDH cho phù hợp, động viên kịp thời người học lựa chọn một phương
pháp học khác, đường hướng nghiên cứu mới. Như vậy người dạy tác động, người học
phản hồi và ngược lại người học phản hồi và người dạy phản ứng, trong môi trường mà cả
hai đều có thể chấp nhận được.
Người học ⇔ bạn học, với cặp tương tác này trong dạy học truyền thống và nhất
là dạy học lí thuyết ít có điều kiện xảy ra. Vậy để cho cặp tương tác này xuất hiện, người
dạy cần phải tạo môi trường thích ứng giúp tương tác xuất hiện và khuyến khích phát triển
thông qua việc cho phép người học trao đổi, tranh luận xung quanh vấn đề đang học tập,
tình huống, câu hỏi tại sao, vì sao... mà người dạy đưa ra hoặc do được nảy sinh trong học
tập. Đặc biệt trong dạy học THKT được tổ chức học tập theo cặp, nhóm thì điều này rất
thuận lợi để người học tương tác với người học một cách cởi mở.
Người học ⇔ bản thân người học, tương tác này khó có thể nhìn thấy, đánh giá
được, bởi nó diễn ra bên trong trí não người học. Tương tác này xuất hiện khi người học
thực sự tích cực. Ngay cả khi người học chỉ ngồi "lặng lẽ", bề ngoài có vẻ thụ động. Nhưng
thực tế, người học tích cực lúc đó đang tập trung hết sự chú ý của mình để theo dõi bài
học, suy nghĩ nội dung, mối liên hệ giữa chúng, có giải đáp trong óc mình những vấn đề
nảy sinh, đưa ra những thắc mắc (cho bản thân tự trả lời hoặc hỏi các bạn, hỏi thầy giáo...)
52
Biện pháp tăng cường tính tương tác tích cực trong dạy học thực hành kỹ thuật
về nội dung bài học... nói cách khác tư duy của người học đang hoạt động tích cực.
Môi trường dạy học ⇔ người học, vai trò của môi trường dạy học thực sự quan
trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của người học. Môi trường dạy học
làm cho người học phải thay đổi để hòa nhịp và thích nghi, nó tác động trực tiếp đến người
học qua đủ 5 giác quan dưới rất nhiều hình thức (bầu không khí học, trang thiết bị dạy
học, tư liệu...)[7]. Trong dạy học THKT nếu môi trường dạy học không có các thiết bị
dạy thì không thể tiến hành hoạt động dạy - học. Các thiết bị kĩ thuật hiện đại, máy móc,
phần mềm chương trình không những có tác động lớn đến người học mà còn như là những
người thầy vô hình ẩn trong đó. Ngày nay do khoa học kĩ thuật, công nghệ phát triển mạnh
nên đã xuất hiện các loại hình thiết bị dạy học có khả năng tương tác mạnh với người học,
các phần mềm dạy học tương tác rất đa dạng phong phú. Việc tác động ngược trở lại của
người học với môi trường làm thay đổi môi trường (thay đổi bầu không khí, thay đổi vị
trí thiết bị, thay đổi góc nhìn vào đối tượng nghiên cứu...) là do các tình huống nảy sinh,
động cơ ham muốn chinh phục, khám phá,... Với cặp tương tác này mang tính ẩn ngầm và
thường diễn ra ở bên trong mỗi người học nên khó kiểm soát.
Môi trường dạy học⇔ người dạy, ở cặp tương tác này thực chất là môi trường tương
tác đến người học thông qua người dạy, nhưng thực tế lại ít được người dạy quan tâm khai
thác, do đó trở nên mờ nhạt. Vì vậy, trước đây, môi trường chưa được phát huy đúng chức
năng trong quan hệ với các yếu tố khác của hệ dạy học, đặc biệt là với yếu tố học. Môi
trường có thể ảnh hưởng tới phương pháp học của người học và phương pháp sư phạm của
người dạy. Môi trường có tạo điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi đến cả người học và người
dạy, khi đó người học và người dạy phản ứng bằng cách sàng lọc những ảnh hưởng có lợi
của môi trường hoặc điều chỉnh các ảnh hưởng bất lợi của môi trường để người dạy và
người học có thể thích nghi.
2.3. Một số biện pháp tăng khả năng tương tác tích cực trong dạy học
thực hành kĩ thuật
Trong bất kì quá trình dạy học nào cũng tồn tại sự tương tác giữa ba nhân tố: người
dạy, người học và môi trường dạy học [4]. Nhưng các tương tác tích cực được diễn ra vào
thời điểm nào của quá trình dạy học, với thầy giáo, bạn học hay môi trường dạy học, định
hướng của tương tác chưa được quan tâm thích đáng. Hay nói cách khác là tương tác chưa
thể hiện được tính tích cực. Vậy, để các tương tác tích cực thì cần có một số biện pháp sau:
- Chẩn đoán về người học, điều quan trọng ở đây là phải chuẩn đoán trình độ phát
triển của người học. Thông qua việc tìm hiểu người học xem họ đã có được mức độ
kiến thức đến đâu, điều này thực hiện theo việc đo lường để phát hiện, bằng câu hỏi trắc
nghiệm, chủ yếu tập trung vào tìm hiểu khả năng độc lập thực hiện nhiệm vụ cụ thể, giải
quyết bài tập, thực hiện công việc,... Đặc biệt quan tâm đến cái đang hình thành và phát
triển ở người học. Vì vậy, phải hướng đến vùng phát triển gần. Nghĩa là, khi làm rõ khả
năng của người học trong tình huống có sự hợp tác, sẽ xác định được các chức năng tâm
lí đang chín muồi mà trong thời gian gần nhất sẽ đạt tới trình độ hiện tại [4].
53
Nguyễn Cẩm Thanh và Nguyễn Văn Khôi
- Đưa người học vào làm việc trong môi trường có nguồn tri thức, ở đó người học
đạt được những hiểu biết cần thiết theo mục tiêu dạy học. Trong môi trường đó có sự trợ
giúp của người dạy, bạn học. Phải đặc biệt quan tâm đến sự giúp đỡ thường xuyên của
người dạy và hợp tác với bạn học.
Ví dụ: Việc nghiên cứu, tìm hiểu và nhận biết kết cấu kĩ thuật của piston, trên vật
thật là các loại piston của động cơ đốt trong. Người dạy đưa ra cho người học các tình
huống có thể xảy ra, liên quan đến quá trình làm việc chuyển động tịnh tiến của piston (bó
kẹt, tiếng gõ...). Vậy từ giải pháp để khắc phục dẫn đến sẽ cần có vật liệu chế tạo, hình
dạng và kết cấu cho phù hợp... Môi trường tri thức ở đây chính là các khái niệm kĩ thuật,
nhiệm vụ, cấu tạo, điều kiện làm việc của piston trên lí thuyết đã học, cần biết vận dụng
vào thực tiễn. Người dạy có thể trợ giúp bằng cách gợi ý để người học nhớ lại kiến thức
lí thuyết đã học, giúp người học phân tích áp dụng với các tình huống thực tế. Người học
có thể thảo luận, hợp tác với bạn học để rút ra những nhận định về các đặc điểm cấu tạo
của piston. Trên có sở đó sẽ giúp việc thực hiện tháo và lắp đúng đáp ứng theo yêu cầu kĩ
thuật.
- Tạo khung kiến thức cơ bản đối với nhu cầu người học (cách thức, phương pháp
khai thác, sử dụng công cụ). Khuyến khích người học độc lập tìm kiếm các giải pháp, độc
lập thử thách chính mình, tự mình vượt qua khó khăn, nhưng sẵn sàng đón nhận sự trợ
giúp khi bế tắc.
Ví dụ: Trong thực hành lắp bánh răng cam với bánh răng trục khuỷu của động cơ
đốt trong 4 kì - 4 xylanh thẳng hàng, dùng xupáp treo. Nếu trên bánh răng không có dấu
hoặc bị mất dấu thì cần lắp thế nào? Khung kiến thức cơ bản được tạo ra là việc thực hiện
các bước cân cam cho động cơ. Người dạy cho người học trao đổi với nhau, tự lực suy
nghĩ đưa ra các phương án thực hiện. Trong đó người dạy có thể giúp đỡ người học qua
các gợi ý (tìm hiểu xem vị trí xilanh số 1, xác định cam hút, cam xả), giúp người học xác
định từng bước thực hiện.
- Phát triển tư duy cho người học bằng phương pháp học qua nghiên cứu, chiến
lược phân tích, giải quyết vấn đề, sử dụng công cụ,...
Ví dụ: Thực tế người học chỉ được học và thực hành điều chỉnh khe hở nhiệt của
xupáp trên những động cơ đốt trong truyền thống. Nhưng nếu đặt người học vào tình
huống phải thực hiện việc điều chỉnh khe hở nhiệt cho động cơ đốt trong đời mới có ứng
dụng công nghệ tự động điều chỉnh xupáp hút, xả (trên động cơ của hãng TOYOTA gọi là
công nghệ VVT-i, Honda gọi là công nghệ i-VTEC, Mitsubishi gọi là công nghệ MIVEC,
Nissan gọi là công nghệ VVEL,...). Trong thực tiễn hiện nay, những động cơ trên ôtô có
ứng dụng các công nghệ kể trên rất phổ biến. Vậy đòi hỏi