1. Mở đầu
Giáo dục đại học tại Việt Nam đang từng bước phát triển theo xu hướng hội
nhập với thế giới. Xu hướng này chắc chắn cũng tác động vào các trường đại học sư
phạm (ĐHSP), nơi cung cấp nguồn lao động chính cho ngành giáo dục. Sinh viên
các trường sư phạm có nhiều cơ hội mới như điều kiện nghiên cứu tài liệu chuyên
ngành của các nước, dự giờ giảng, seminar khoa học với chuyên gia nước ngoài,
thu thập thông tin khoa học từ internet,. . . Tuy nhiên, để tận dụng được những
thuận lợi đó, sinh viên phải đối mặt với thách thức của hai công cụ quan trọng: khả
năng sử dụng công nghệ thông tin và khả năng sử dụng tiếng Anh. Môn tiếng Anh
(môn ngoại ngữ nói chung) nằm trong khối kiến thức chung bắt buộc thuộc khung
chương trình đào tạo sinh viên ngành sư phạm của các trường đại học. Tuy nhiên
phần tiếng Anh đại cương (TAĐC) lâu nay vẫn được giảng dạy chưa đủ để đáp ứng
nhu cầu giao lưu trong môi trường khoa học của người học. Khái niệm Tiếng Anh
chuyên ngành (TACN) đã trở nên quen thuộc trong các trường đại học nói chung,
các trường sư phạm ở Việt Nam nói riêng. Ngày càng có nhiều giáo viên trực tiếp
tham gia thiết kế chương trình và viết giáo trình TACN cho các chuyên ngành đang
được giảng dạy tại trường mình như ĐHSP Hà Nội, ĐHSP Đà Nẵng, ĐHSP thành
phố Hồ Chí Minh. Quan sát và tìm hiểu về việc biên soạn giáo trình TACN của
các trường cũng như từ kinh nghiệm bản thân trong một quá trình dài tham gia
xây dựng khung chương trình và viết giáo trình TACN cho sinh viên và khối thạc
sĩ khoa học tại trường ĐHSP Hà Nội, tác giả xin trình bày một vài suy nghĩ về việc
thiết kế và biên soạn giáo trình TACN.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biên soạn giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên đại học sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci. 2010, Vol. 55, No. 8, pp. 158-166
BIÊN SOẠN GIÁO TRÌNH TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Lê Kim Dung
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Mở đầu
Giáo dục đại học tại Việt Nam đang từng bước phát triển theo xu hướng hội
nhập với thế giới. Xu hướng này chắc chắn cũng tác động vào các trường đại học sư
phạm (ĐHSP), nơi cung cấp nguồn lao động chính cho ngành giáo dục. Sinh viên
các trường sư phạm có nhiều cơ hội mới như điều kiện nghiên cứu tài liệu chuyên
ngành của các nước, dự giờ giảng, seminar khoa học với chuyên gia nước ngoài,
thu thập thông tin khoa học từ internet,. . . Tuy nhiên, để tận dụng được những
thuận lợi đó, sinh viên phải đối mặt với thách thức của hai công cụ quan trọng: khả
năng sử dụng công nghệ thông tin và khả năng sử dụng tiếng Anh. Môn tiếng Anh
(môn ngoại ngữ nói chung) nằm trong khối kiến thức chung bắt buộc thuộc khung
chương trình đào tạo sinh viên ngành sư phạm của các trường đại học. Tuy nhiên
phần tiếng Anh đại cương (TAĐC) lâu nay vẫn được giảng dạy chưa đủ để đáp ứng
nhu cầu giao lưu trong môi trường khoa học của người học. Khái niệm Tiếng Anh
chuyên ngành (TACN) đã trở nên quen thuộc trong các trường đại học nói chung,
các trường sư phạm ở Việt Nam nói riêng. Ngày càng có nhiều giáo viên trực tiếp
tham gia thiết kế chương trình và viết giáo trình TACN cho các chuyên ngành đang
được giảng dạy tại trường mình như ĐHSP Hà Nội, ĐHSP Đà Nẵng, ĐHSP thành
phố Hồ Chí Minh... Quan sát và tìm hiểu về việc biên soạn giáo trình TACN của
các trường cũng như từ kinh nghiệm bản thân trong một quá trình dài tham gia
xây dựng khung chương trình và viết giáo trình TACN cho sinh viên và khối thạc
sĩ khoa học tại trường ĐHSP Hà Nội, tác giả xin trình bày một vài suy nghĩ về việc
thiết kế và biên soạn giáo trình TACN.
158
Biên soạn giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên đại học sư phạm
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Giới thiệu về tiếng Anh chuyên ngành
2.1.1. Thế nào là tiếng Anh chuyên ngành?
Để trả lời câu hỏi nghe chừng đơn giản này, Anthony phát biểu: “TACN đã
trải qua một thời kì dài phát triển và trưởng thành, và do vậy mọi người đều cho
rằng những người trực tiếp tham gia vào lĩnh vực này hiểu rõ thế nào là TACN.
Điều kì lạ là thực tế không chứng minh điều đó.” (Anthony, L.) [2].
Hầu hết các giáo viên đều hiểu TACN là tiếng Anh được sử dụng trong phạm
vi chuyên môn của người học như kinh doanh, hàng không, giải trí. . . Cách hiểu này
không sai, nhưng cũng không hoàn toàn chính xác. Trong thực tế, không phải bao
giờ người học đến với các chương trình TACN cũng là để phục vụ chuyên môn của
mình, mà còn có thể do một nhu cầu hay một sở thích riêng. Hơn nữa, khái niệm
chuyên ngành thường rất rộng về phạm vi chuyên môn, đa dạng trong kĩ năng sử
dụng. Thí dụ trong ngành Hóa học có: Hóa đại cương, Hóa phân tích, Hóa sinh. . . ;
trong cùng một chuyên ngành Giáo dục tiểu học có người học chỉ để phát triển kĩ
năng đọc hiểu để đọc tài liệu, có người học kĩ năng nghe, nói để tham gia hội thảo
khoa học. Ngay cả khi có cùng chuyên ngành hẹp thì trình độ tiếng của người học
cũng có thể khác nhau. Điều đó chỉ ra một thực tế là: khó có thể tìm được một giáo
trình TACN có sẵn nào phù hợp hoàn toàn cho một nhóm đối tượng cụ thể.
Tom Hutchinson đã đưa ra một định nghĩa khái quát: “TACN thực chất là
một cách tiếp cận giảng dạy ngôn ngữ mà trong đó tất cả những quyết định về nội
dung cũng như phương pháp giảng dạy đều dựa trên mục đích cụ thể của người
học” [11]. Cách nhìn nhận này cũng được Tony Dudley-Evans, đồng biên tập Tạp
chí TACN quốc tế (English for Specific Purposes: An international journal) chia sẻ.
Dudley-Evans cho rằng đặc điểm chung của TACN là “đáp ứng đúng nhu cầu cụ thể
của một nhóm học viên”, và phải sử dụng những phương pháp cũng như hoạt động
nhằm đạt được mục đích cụ thể đó (Dudley-Evans, Anthony, L trích dẫn) [1].
2.1.2. Đối tượng của tiếng Anh chuyên ngành
Một điều mà các giáo viên giảng dạy tiếng Anh rất dễ nhận ra khi so sánh
đối tượng của tiếng Anh đại cương (ESL: English as a Second Language or General
English) với tiếng Anh chuyên ngành (ESP: English for Specific Purposes) là TAĐC
thường mang tính đại trà, được sử dụng trong sinh hoạt giao tiếp hàng ngày, phù
hợp cho mọi đối tượng và thường tập trung phát triển đồng đều 4 kĩ năng nghe,
nói, đọc, và viết; còn TACN thường mang tính biệt lập hơn vì nó thường chỉ được
sử dụng trong một môi trường học, làm việc cụ thể bởi một nhóm người có cùng
159
Lê Kim Dung
chuyên môn hoặc cùng mối quan tâm.
Với đặc thù đó, đối tượng của TACN thường là người lớn, hay đúng hơn là
những người đang theo học, hoặc làm việc trong một môi trường chuyên môn cụ
thể. Sinh viên các trường sư phạm thì có cùng một chuyên ngành rộng là giáo dục
và một chuyên ngành hẹp hơn thuộc về chuyên môn riêng của họ như Vật lí, Sinh
học, Ngôn ngữ, Giáo dục Mầm non. . .
2.1.3. Những thay đổi trong phương pháp giảng dạy TACN
Vào những năm 1960, dạy TACN có nghĩa là dạy từ vựng chuyên ngành một
cách riêng rẽ, độc lập. Giảng viên soạn một bảng (list) từ chuyên ngành, giải thích
nghĩa từng từ, rồi dịch từ đó sang tiếng mẹ đẻ của người học, có thể kèm theo một
vài thí dụ minh họa. Người học có nhiệm vụ học thuộc lòng bảng từ vựng đó. Khi
phương pháp tiếp cận lấy người học làm trung tâm trở nên phổ biến (1980s) thì
các chương trình dạy TACN bắt đầu chú trọng vào việc tìm hiểu nhu cầu của người
học trước khi thiết kế chương trình. Người thiết kế cũng quan tâm đến những yếu
tố ngoài từ vựng như bối cảnh sử dụng từ, mối liên hệ của một thuật ngữ chuyên
ngành với các từ kết hợp với nó. . . Đến những năm 1990 thì việc dạy TACN đã
có một bước tiến lớn: phân tích diễn ngôn đã được sử dụng để phân tích một bài
TACN, mối quan hệ giữa một thể loại bài và chức năng cụ thể của nó được phân
tích. Điều đó có nghĩa là giáo viên phải tạo ra được một môi trường trong đó học
viên trực tiếp tiếp cận với từ vựng/ cấu trúc chuyên ngành nằm trong một nội dung
cụ thể để họ, kết hợp với kiến thức chuyên ngành sẵn có của mình, tự khám phá
nghĩa và cách sử dụng các từ vựng/ cấu trúc đó. Bằng cách này họ sẽ học từ vựng
chuyên ngành không phải như từng từ riêng biệt vô nghĩa đã bị tách ra khỏi “môi
trường sống” của nó, mà là từ được đặt trong một ngữ cảnh cụ thể để diễn đạt một
nội dung chuyên ngành. Như vậy người học mới có khả năng tái hiện và sử dụng từ
vựng/ cấu trúc đó trong những ngữ cảnh tương tự, cũng như sáng tạo để sử dụng
trong các ngữ cảnh khác.
2.2. Thiết kế chương trình TACN
Khi có nhu cầu học TACN, người học thường phải tìm đến những khóa học
đã được thiết kế sẵn cho một chuyên ngành nào đó phù hợp nhất với họ. Những
khóa học như vậy thường chỉ đáp ứng được một chuyên ngành rộng (như tiếng Anh
cho Quản trị kinh doanh), rèn luyện chung các kĩ năng và khó lòng thỏa mãn được
những nhu cầu cụ thể của người học. Trong trường hợp này không phải là chương
trình “đáp ứng” nhu cầu người học mà là người học phải “điều chỉnh” để theo được
chương trình. Cách thứ hai để học TACN là người học, hoặc cơ sở phụ trách đào
tạo phải “đặt hàng” để một nhóm giáo viên thiết kế riêng cho họ một khóa học phù
160
Biên soạn giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên đại học sư phạm
hợp (customized). Đây chính là cách thức mà hiện nay nhiều trường sư phạm ở Việt
Nam đang tiến hành. Có hai lí do chính: 1. Rất khó tìm được giáo trình TACN
dành cho từng môn khoa học cơ bản trong giáo dục; 2. Một thuận lợi rất lớn cho các
trường sư phạm khi “đặt hàng” là họ có những nhóm lớn các khách hàng - đối tượng
sử dụng chương trình - tương đối đồng đều về trình độ học vấn, trình độ tiếng, nhu
cầu sử dụng, chuyên ngành, tuổi tác. . .
Không phải bất kì một giáo viên tiếng Anh nào, dù là giỏi chuyên môn, cũng
có thể ngay lập tức chuyển sang thiết kế chương trình và viết giáo trình TACN. Việc
thiết kế chương trình TACN đòi hỏi những kiến thức, kĩ năng nhất định và phải
tuân thủ những nguyên tắc chặt chẽ.
2.2.1. Những hiểu biết cần có trước khi bắt tay thiết kế chương trình
TACN cho sinh viên sư phạm
* Hợp tác.
Sự thành công của một khóa học phụ thuộc phần lớn vào sự chính xác và
phù hợp trong định hướng mục tiêu; tính khoa học, hệ thống trong thiết kế chương
trình; việc chọn lọc, và xử lí chính xác nguồn tài liệu, và hiệu quả trong đánh giá.
Do vậy nếu thiếu hiểu biết cơ bản về thiết kế chương trình thì khó lòng đưa ra được
một sản phẩm có giá trị sử dụng.
TACN là một môn học mang tính chất lồng ghép: kiến thức chuyên ngành
nằm trong ngôn ngữ, ngôn ngữ được sử dụng để giao tiếp trong môi trường chuyên
ngành. Như vậy khi thiết kế một chương trình TACN, những kiến thức và kĩ năng
cần thiết cho công việc thiết kế chương trình cũng vẫn chưa đủ để cho ra đời một
chương trình TACN phù hợp và chính xác. Một mảng kiến thức rất quan trọng giúp
cấu thành một chương trình TACN là kiến thức chuyên môn của chuyên ngành đó.
Thí dụ đối với sinh viên chuyên ngành Hóa học tại trường sư phạm thì những nội
dung chuyên môn nào chung cho đa số sinh viên? Những kĩ năng ngôn ngữ nào là
cần thiết? Có hai nhóm người có thể giúp chúng ta trả lời những câu hỏi này.
Nhóm 1: Giáo viên chuyên ngành đang trực tiếp giảng dạy và làm việc cùng
nhóm sinh viên đó. Họ sẽ giúp các giáo viên tiếng Anh có định hướng đúng trong
xác định mục tiêu của chương trình, chọn lọc tài liệu, đề ra phương thức kiểm tra
đánh giá phù hợp. Với tư cách là người thụ hưởng “sản phẩm”, họ cũng sẽ hỗ trợ
việc thẩm định hiệu quả của chương trình. “Sự hợp tác giữa các lĩnh vực chuyên
môn” (interdisciplinary collaboration) (Horn et al. 2008) [6] nhằm tăng hiệu quả
công việc đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây, cả trong và ngoài phạm vi
của TACN.
Nhóm 2: Bản thân người học. Sinh viên khi đến với các chương trình TACN
161
Lê Kim Dung
đều đem theo một phần hành trang cho việc học, đó là kiến thức chuyên ngành mà
họ đã được học tại khoa của mình. Nếu biết cách khai thác, không những việc thiết
kế mà cả việc giảng dạy TACN cũng sẽ phát huy hiệu quả cao. Pavel, trong một bài
đăng trên tạp chí mạng TESL, nhấn mạnh tầm quan trọng của nhóm thông tin thứ
2 cần thu được qua điều tra: “tài sản của người học” mà trong đó “trình độ của họ
trong lĩnh vực chuyên môn, hiểu biết của họ về TACN” là thông tin then chốt, và
do vậy ông đã thay thế thuật ngữ “Tìm hiểu nhu cầu” (needs analysis) bằng “Tìm
hiểu người học”(students analysis) (Pavel, V.S) [7].
* Hiểu rõ lịch sử học ngoại ngữ của sinh viên sư phạm.
Khi thiết kế chương trình, ngoài việc tìm hiểu nhu cầu của người học, người
thiết kế cần nắm vững trình độ của đối tượng trong chương trình. Chương trình
khung giáo dục đại học cho ngành sư phạm quy định thời lượng bắt buộc dành cho
môn ngoại ngữ là 14 đơn vị học trình (đvht). Hiện nay chương trình tiếng Anh được
giảng dạy tại các trường đại học phần lớn được phân bổ vào 2 năm đầu của chương
trình đại học (gồm 4 học kì) theo tỉ lệ 4-3-4-3. Ba học kì đầu chương trình thường
dành để dạy Tiếng Anh đại cương theo một giáo trình có sẵn trên thị trường. Học
kì 2 của năm thứ 2 sinh viên mới làm quen với TACN (3 đvht), nếu trường mà sinh
viên theo học có chương trình này. Do vậy việc thiết kế chương trình TACN cho sinh
viên sư phạm cần dựa trên hai yếu tố chính: (1) mang tính kế thừa, phát triển và
tận dụng cơ sở ngôn ngữ mà sinh viên đã có sau 11 đvht của tiếng Anh đại cương;
và (2) đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong thời đại ngày nay cũng như nhu cầu sử
dụng thực tế TACN của sinh viên ngành sư phạm.
2.2.2. Những kĩ năng cần có khi thiết kế một chương trình TACN
Việc thiết kế một chương trình TACN cũng tuân thủ những quy tắc như khi
thiết kế bất kì một chương trình dạy ngoại ngữ nào; bên cạnh đó, cần cân nhắc đến
những tính chất đặc thù của TACN. Để thiết kế được một chương trình TACN có
hiệu quả, các nhà thiết kế cần có những kĩ năng sau:
- Biết cách tiến hành điều tra nhằm tìm hiểu người học (nhu cầu, mục đích
và phạm vi sử dụng TACN...).
- Có kiến thức cơ bản về soạn thảo khung chương trình và chương trình chi
tiết cho một khóa học.
- Biết cách thu thập, chọn lọc, xử lí và ghi nhận nguồn tài liệu trong lĩnh vực
chuyên ngành cụ thể, để từ đó thiết kế chương trình.
- Có kĩ năng và kiến thức về thiết kế một bài học hoàn chỉnh, biết cách khai
thác tối đa nội dung cũng như kĩ năng ngôn ngữ xuất hiện trong bài.
- Có kĩ năng và kiến thức về soạn bảng câu hỏi đánh giá chương trình sau khi
162
Biên soạn giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên đại học sư phạm
sử dụng thí điểm, tiến hành đánh giá, rồi sau đó chỉnh sửa chương trình.
- Có kiến thức về kiểm tra đánh giá để có thể đưa ra được một phương thức
đánh giá kết quả học tập của sinh viên phù hợp với mục tiêu của chương trình
TACN.
- Biết cách xây dựng, duy trì mối quan hệ với các đồng nghiệp bên chuyên
ngành, hợp tác một cách có hiệu quả với họ trong suốt quá trình làm việc.
2.2.3. Trình tự các bước thiết kế chương trình TACN
Sau khi đã được trang bị những kiến thức và kĩ năng cần thiết, các giáo viên
có thể bắt tay thiết kế chương trình tuân theo những bước sau:
- Phân tích nhu cầu, trình độ tiếng, phạm vi kiến thức chuyên ngành của người
học.
- Xác định mục tiêu của khóa học.
- Xác định khối lượng kiến thức phù hợp với thời lượng của khóa học.
- Xác định phương pháp giảng dạy cụ thể và các loại hình hoạt động trên lớp.
- Xác định phương thức kiểm tra đánh giá.
- Sưu tầm, chọn lọc, phân loại và xử lí tài liệu để sử dụng cho chương trình.
- Thiết kế bài.
- Thẩm định và đưa vào sử dụng.
- Đánh giá chương trình sau giai đoạn thử nghiệm.
- Chỉnh sửa và hoàn thiện.
2.2.4. Mục tiêu cần đạt được khi thiết kế chương trình TACN
Bất kì sản phẩm nào của công việc thiết kế chương trình TACN đều phải đạt
được hiệu quả cao cả về nội dung và giá trị sử dụng. Muốn vậy chương trình phải
đáp ứng được những tiêu chuẩn sau:
- Kết cấu chương trình phải khoa học, hệ thống và mang tính kế thừa.
- Trình bày phải rõ ràng, sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn được người học.
- Hệ thống bài phải đáp ứng được nội dung chuyên ngành, phải đại diện cho
những thể loại văn phong khoa học phù hợp với đối tượng sử dụng là sinh viên sư
phạm. Thí dụ, đối với sinh viên khoa Sinh học thì các bài học nên được lấy ra từ
sách báo, tạp chí chuyên ngành Sinh học. Nhìn vào một chương trình tiếng Anh “rõ
ràng rất phù hợp với nhu cầu của mình khiến người học được khích lệ và do vậy
việc học sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn” (Hutchinson, 1987, p.8) [11].
163
Lê Kim Dung
- Hệ thống bài tập và các hoạt động trên lớp phải (i) đa dạng, tập trung khai
thác một cách có hiệu quả những kiến thức/ kĩ năng ngôn ngữ trong bài có liên quan
đến nội dung chuyên ngành; (ii) tận dụng được những kiến thức nền trong chuyên
ngành của người học; (iii) tạo ra những tình huống thiết thực cho người học luyện
tập và sử dụng những kiến thức vừa học; và (iv) qua đó phát huy tính tích cực, chủ
động của người học. Nói một cách khác, hệ thống đó phải “cung cấp những phương
tiện giúp người học tham gia trực tiếp vào quá trình xử lí và tái tạo ngôn ngữ. . .
chứ không chỉ đơn thuần là mẫu để người học bắt chước” (Chris and Deborah) [4].
- Tạo điều kiện luyện cho người học thói quen tự khai thác và sử dụng các
nguồn tài liệu thực (authentic) sẵn có bên ngoài vào việc học.
2.2.5. Vai trò của người thiết kế chương trình TACN
Một chương trình TACN chỉ ra đời khi có một nhu cầu cụ thể, trong một giai
đoan cụ thể, ở một môi trường cụ thể, cho một đối tượng cụ thể. Do vậy có những
chương trình sẽ có cơ hội được sử dụng nhiều lần (như trong trường hợp các chương
trình TACN cho sinh viên sư phạm), nhưng cũng sẽ có những chương trình sẽ bị
loại bỏ sau một lần sử dụng. Ngoài kiến thức cơ bản về thiết kế chương trình, người
thiết kế chương trình TACN còn phải là người có kiến thức ngôn ngữ, đồng thời
phải có kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy. Hay nói đúng hơn, họ là những giáo viên
làm công việc thiết kế chương trình.
Vai trò của những giáo viên tham gia thiết kế và giảng dạy TACN có thể được
mô tả như sau: tìm hiểu người học + thiết kế khung chương trình + chọn lọc tài
liệu + thiết kế bài giảng + dạy + đánh giá chương trình + chỉnh sửa. Trong số này,
vai trò của người đánh giá chương trình có lẽ là vai trò bị coi nhẹ nhất, và nếu vậy
thì việc chỉnh sửa, nếu có, cũng khó lòng đạt hiệu quả cao.
Để thực hiện vai trò đó, người thiết kế TACN hiện nay rất cần có thêm kĩ năng
sử dụng CNTT trong việc tìm tài liệu (xác định phương thức tìm kiếm, nguồn tư
liệu, độ tin cậy của tư liệu, cách tải tư liệu, cách ghi nhận nguồn. . . ), trong thiết kế
bài giảng (sử dụng các phần mềm hỗ trợ, thiết kế các đường links. . . ), trong giảng
dạy (sử dụng máy móc, công cụ trình chiếu. . . ) và trong giao tiếp ngoài lớp với học
viên (dùng thư điện tử để liên lạc như thông báo, gửi tài liệu. . . ).
Rõ ràng trong phần lớn trường hợp thì giáo viên chính là những người chịu
trách nhiệm trực tiếp trong việc xây dựng chương trình dưới sự hỗ trợ tĩnh (như
sách báo tài liệu, các hướng dẫn, các kiến thức từ những khóa đào tạo. . . ) và hỗ trợ
động (những người trực tiếp làm việc trong lĩnh vực chuyên ngành đó, các nhà tư
vấn chương trình. . . ). Tuy vậy, để hoàn thành tốt các vai trò thì thời gian, kĩ năng
và sự trợ giúp là những yếu tố tối cần thiết đối với những giáo viên trực tiếp tham
gia thiết kế chương trình.
164
Biên soạn giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên đại học sư phạm
3. Kết luận
Ngoài những kiến thức và kĩ năng về thiết kế chương trình nói chung, tiếng
Anh chuyên ngành nói riêng, người thiết kế chương trình TACN phải luôn ghi nhận
một điều rất quan trọng là: trong thiết kế chương trình TACN, người học đóng một
vai trò rất quan trọng. Người học quyết định mục tiêu, trình độ, nội dung, kĩ năng
ngôn ngữ của chương trình, và phương pháp tiếp cận để đạt được mục tiêu của
chương trình. Ngoài vai trò “hình thành” chương trình, người học còn đóng vai trò
“hỗ trợ”. Họ có thể giúp giáo viên định hướng và tìm kiếm tài liệu chuyên ngành cho
khóa học, có thể giúp giáo viên hiểu rõ hơn một nội dung chuyên ngành đang được
truyền tải trong bài học, và họ sẽ là người đóng góp những ý kiến quí báu về nội
dung chuyên ngành cũng như kĩ năng ngôn ngữ đặc thù cần đạt được trong chương
trình. Sự “dựa dẫm” vào người học này ít khi xảy ra trong các chương trình tiếng
Anh đại chúng.
Cơ hội giao lưu, hợp tác với các đồng nghiệp, đối tác khoa học trên thế giới,
và cơ hội ra nước ngoài để học tập, nâng cao trình độ của sinh viên chúng ta phụ
thuộc phần lớn vào khả năng sử dụng tiếng Anh, đặc biệt là tiếng Anh trong môi
trường khoa học giáo dục nói chung, trong lĩnh vực chuyên môn nói riêng. Thành
công này có được hay không phụ thuộc phần lớn vào chương trình TACN mà các
sinh viên được học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Anthony, L. 1997. English for Specific Purposes: What does it mean? Why
is it different? Okayama University of Science. Japan. Anthony@ ice.ous.ac.jp
[2] Anthony, L. Defining English for Specific Purposes and the Role of the ESP
Practitioner. Okayama University of Science, Japan. Anthony@ ice.ous.ac.jp
[3] Bouzidi, H. 2009. Between the ESP Classroom and the Workplace: Bridging
the Gap. English Teaching Forum 47 (3), pp.10-19.
[4] Chris, O-G and Deborah, A. 1998. A Principled Approach to ESP Course
Design. The University of Hong Kong. HKJAL Vol. 3, No. 1, June 1998 pp 77-86
[5] Ha, P. L. 2005. Munby’s ’needs analysis’ model and ESP. Teachers Articles.
Vol. 6.
[6] Horn, B., Stoller, F., Robinson, M.S. 2008. Interdisciplinary Collaboration:
Two Heads Are Better Than One. English Teaching Forum 46 (2).
[7] Pavel V. S. 2000. Developing an English for Specific Purposes Course Using
a Learner Centered Approach: A Russian Experience. The Tambov State University
165
Lê Kim Dung
(Russia). The Internet TESL Journal, Vol. VI, No. 3, March 2000.
[8] Smoak, R. 2003. What is English for Specific Purposes? English Teaching
Forum Online. Language and Life Scie