Biểu thị niềm vui trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

TÓM TẮT Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ văn hóa dân gian, là nơi biểu hiện đậm nét cách diễn đạt tư duy của một dân tộc. Bài viết nhằm so sánh đối chiếu thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị cảm xúc “vui” để tìm ra nét tương đồng và dị biệt của chúng. Kết quả khảo sát 53 thành ngữ biểu thị niềm vui của tiếng Việt và 65 thành ngữ tiếng Anh tương ứng cho thấy cả hai nhóm đều sử dụng tên các bộ phận cơ thể con người để biểu đạt sắc thái cảm xúc “vui”, đều dùng hình ảnh sống động, lối nói phóng đại và nghệ thuật so sánh. Điểm khác biệt cơ bản giữa chúng là hai ngôn ngữ dùng tên các bộ phận cơ thể đặc trưng khác nhau để mô tả cùng một loại cảm xúc cũng như đặc trưng văn hóa dân tộc. Phép đối xứng để xây dựng về bình diện cấu trúc cũng là nét khác biệt đáng kể.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu thị niềm vui trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 21 - Thaùng 6/2014 110 BIỂU THỊ NIỀM VUI TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH TRẦN THẾ PHI(*) TÓM TẮT Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ văn hóa dân gian, là nơi biểu hiện đậm nét cách diễn đạt tư duy của một dân tộc. Bài viết nhằm so sánh đối chiếu thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị cảm xúc “vui” để tìm ra nét tương đồng và dị biệt của chúng. Kết quả khảo sát 53 thành ngữ biểu thị niềm vui của tiếng Việt và 65 thành ngữ tiếng Anh tương ứng cho thấy cả hai nhóm đều sử dụng tên các bộ phận cơ thể con người để biểu đạt sắc thái cảm xúc “vui”, đều dùng hình ảnh sống động, lối nói phóng đại và nghệ thuật so sánh. Điểm khác biệt cơ bản giữa chúng là hai ngôn ngữ dùng tên các bộ phận cơ thể đặc trưng khác nhau để mô tả cùng một loại cảm xúc cũng như đặc trưng văn hóa dân tộc. Phép đối xứng để xây dựng về bình diện cấu trúc cũng là nét khác biệt đáng kể. Từ khóa: thành ngữ, văn hóa dân gian, niềm vui, ngôn ngữ, văn hóa dân tộc. ABSTRACT The Expression of Happiness in Vietnamese and English Idioms Idioms are folklore’s language units, by which the way of a people’s thinking is deeply and profoundly expessed. The article aims at comparing and contrasting Vietnamese and English idioms expressing happiness to seek for the similarities and differences of these two groups of idioms. The analysis and interpretation of 53 Vietnamese happiness- expressing idioms compared to 65 English corresponding idioms indicate that these two groups contain the names human organs to display different levels of happiness, use vivid image, and exaggeration, and similes. The primary differences between them lie in the way to select the names of human organs to describe the similar emotion as well as cultural characteristics of each nation. The use of structural symmetry also counts for the other distinction between Vietnamese and English idioms expressing happiness. Keywords: idioms, folklore, happiness, languages, national culture. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*) Trong tiếng Việt, thành ngữ từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu thu hút sự quan tâm của ngành Việt ngữ học và những liên ngành khác trên nhiều bình diện như ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng-ngữ nghĩa và tu từ học. Thành ngữ cũng được chú ý nghiên cứu cả trong văn chương và văn học dân gian (Nguyễn Công Đức, 1996, tr. 10-11). (*)ThS, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sài Gòn Ở một mức độ nào đó, thành ngữ tiếng Anh cũng có một số những đặc điểm tương đồng với thành ngữ tiếng Việt về phương diện kết cấu, nghĩa là chúng đều là những tổ hợp cố định và bên cạnh ngữ nghĩa do sự kết hợp của các từ tạo nên thành ngữ ấy, thì thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh có một ý nghĩa ngoài ý nghĩa ngữ pháp đó là nghĩa ẩn dụ, là nghĩa hình tượng cao. Chúng tôi tiến hành khảo sát một nhóm TRẦN THẾ PHI 111 các thành ngữ tiếng Việt (53 thành ngữ ) và tiếng Anh (65 thành ngữ) biểu thị ý nghĩa niềm vui nhằm cố gắng tìm ra nét tương đồng và dị biệt của chúng, chủ yếu là về bình diện cấu trúc ngữ nghĩa, sắc thái biểu cảm, và nghệ thuật tu từ. Bên cạnh đó, chúng tôi dùng mô hình ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận để giải thích yếu tố biểu thị cảm xúc ở những thành ngữ được khảo sát. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGÔN LIỆU Chúng tôi phối hợp chủ yếu hai phương pháp: miêu tả phân tích và so sánh đối chiếu để thực hiện nghiên cứu này. Trước hết, chúng tôi xác lập tiêu chí của đối tượng nghiên cứu, đó là thành ngữ biểu thị niềm vui của tiếng Việt và tiếng Anh. Bước tiếp theo, chúng tôi khảo sát các từ điển thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, lập thành bảng liệt kê thành ngữ biểu thị cảm xúc vui, rồi tiến hành miêu tả chúng, từ đó nhằm đúc kết một số nhận định về sự giống nhau và khác biệt của hai nhóm thành ngữ này trên bình diện cấu trúc ngữ nghĩa, sắc thái biểu cảm, và nghệ thuật tu từ. Ngôn liệu của bài viết chủ yếu là các loại từ điển tiếng Việt và tiếng Anh có uy tín: từ điển tiếng Việt như Từ điển thành ngữ Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (1989), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (2009), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam của Việt Chương (2009); từ điển tiếng Anh như American Heritage Dictionary of Idioms, Cambridge International Dictionary of Idioms , Oxford Dictionary of English Idioms, NTC’s English idioms dictionary. 3. THÀNH NGỮ VÀ CẢM XÚC Theo quan điểm truyền thống, thành ngữ được xem như là một tổ hợp có nghĩa khi phát ngôn và chúng thường không thể được chiết tách thành các thành tố nhỏ hơn hay có thể tổng hợp thành những đơn vị lớn hơn. Do vậy, thành ngữ được xem như là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt. Quan điểm ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận - mà đại diện tiêu biểu là hai nhà ngôn ngữ học người Mỹ Lakoff và Johnson (1980, tr.80) khẳng định ẩn dụ không chỉ là một phương thức tu từ trong văn chương, mà “quan trọng hơn là một phương tiện để hiểu và trải nghiệm bất kì một hiện tượng nào đó dưới dạng một hiện tượng khác”. Tác động của ẩn dụ đối với sự giải thích thành ngữ là rất lớn, đặc biệt là những thành ngữ biểu thị cảm xúc. Cảm xúc, với vai trò là một trong những trải nghiệm phổ biến nhất của con người, đã được khái niệm hóa và biểu thị theo nhiều phương thức ẩn dụ khác nhau. Ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) đóng một vai trò quan trọng trong việc khái niệm hóa cảm xúc. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung quan tâm đến loại cảm xúc vui. 4. ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NHÓM THÀNH NGỮ BIỂU THỊ NIỀM VUI CỦA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH 4.1. Điểm tương đồng Qua khảo sát hai nhóm thành ngữ Anh- Việt biểu thị cảm xúc vui, chúng tôi rút ra một vài nhận xét về sự tương đồng của hai nhóm thành ngữ này như sau: 4.1.1. Sử dụng tên các bộ phận cơ thể con người Cả hai nhóm thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh đều có sử dụng tên các bộ phận cơ thể con người để biểu đạt sắc thái cảm xúc hạnh phúc. Điều này có thể được lý giải dựa trên quan điểm cho rằng con người là trung tâm của vũ trụ, và tình cảm hay cảm xúc chính là thuộc tính quan trọng BIỂU THỊ NIỀM VUI TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH 112 của con người khiến con người có thể phân biệt được với các loài sinh vật khác. Trong tiếng Việt, qua khảo sát, chúng tôi thấy có 20 thành ngữ biểu thị niềm vui có sử dụng từ chỉ bộ phận cơ thể, chiếm tỉ lệ 37,7% . Những thành ngữ có chứa từ bụng, dạ, lòng như “hả/hởi lòng hả/hởi dạ, mát lòng hả dạ, mát lòng mát dạ, được lời như cởi tấm lòng, mừng như mở cờ trong bụng”, từ ruột, gan như “mừng nở ruột nở gan, vui như nở từng khúc ruột, mát gan mát ruột”, từ mặt như “mát mày mát mặt, nở mày nở mặt, mặt tươi như hoa, tay bắt mặt mừng”, từ miệng như “miệng cười như hoa nở”, từ tay như “múa tay trong bị, tay bắt mặt mừng”, từ tai như “nghe như rót vào tai”,v.v. Tiếng Anh có 13 thành ngữ cũng dùng tên bộ phận cơ thể khi miêu tả cảm xúc vui, chiếm tỉ lệ 20%. Một số ví dụ tiêu biểu như gladden one’s heart (làm vui trái tim của ai), warm the cockles of sb's heart (sưởi ấm vỏ bọc bên ngoài của trái tim ai), stir the / one's blood (sôi máu), lick one's lips (liếm môi), grin from ear to ear (cười toét miệng đến mang tai), music to your ears (nhạc đến tai của bạn), stars in one's eyes (ngôi sao trong mắt ai) v.v. Để lý giải vì sao bộ phận cơ thể người lại được sử dụng nhiều trong thành ngữ biểu lộ cảm xúc, có lẽ phải nhờ đến lý luận của ngôn ngữ học tri nhận để tìm một lời giải đáp mang tính thuyết phục hơn. Trải nghiệm thông qua giác quan (Perceptual experience) đã được xem là lý thuyết chính trong ngôn ngữ học tri nhận. Johnson (1987) và Lakoff (1987) ngầm giả định rằng phạm trù bộ phận cơ thể sẽ giống nhau trong mọi nền văn hóa vì cơ chế nhận thức của mọi người là như nhau và các cơ quan nội tạng của con người ít nhiều tương tự nhau. 4.1.2. Dùng hình ảnh sống động, lối nói thậm xưng Điểm tương đồng thứ hai của hai nhóm thành ngữ biểu thị sắc thái vui buồn tiếng Việt và tiếng Anh là cả hai loại thành ngữ này đều có dùng hình ảnh sống động, lối nói thậm xưng - một biện pháp tu từ ngữ nghĩa dùng hình ảnh về lượng. Lúc người Việt vui, thì niềm vui ấy được miêu tả thật sâu sắc. Thành ngữ tiếng Việt biểu thị niềm vui như: mừng như (bắt) được vàng, mừng như (hơn) cha chết sống lại (dậy), mừng nở ruột nở gan, v.v. Lúc người Việt vui, niềm vui ấy là tột đỉnh như thể khi ta nhặt hoặc đào được vàng, hay như thể người cha yêu thương của ta sống lại sau khi chết, khiến cho mọi đau lòng chợt tan biến, hoặc như vui mà ruột gan “nở” ra thì cho thấy niềm vui ấy tràn ngập trong lòng, không sao kể xiết. Tương tự, thành ngữ tiếng Anh cũng có những kiểu nói đầy hình ảnh thậm xưng, chẳng hạn thành ngữ “feel/look like a million dollars” (cảm thấy/giống như một triệu đôla) cho chúng ta thấy sự vui mừng của một người nào đó khi được cho hoặc trúng thưởng một số tiền có giá trị to lớn như vậy. Hoặc như thành ngữ “grin from ear to ear” biểu thị nụ cười “hết cỡ” (miệng kéo đến tận mang tai) cũng cho ta thấy lối nói thậm xưng này tạo một hiệu ứng nhất định cho phát ngôn. Còn các thành ngữ như “over the moon” (lên cung trăng), “walk on air” (đi trên không khí) cho thấy niềm vui của người phương Tây có thể sánh với những vật trên cao như cung trăng, không khí, đem lại cho họ cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, vui vẻ. Như vậy, chúng ta thấy rằng tuy hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh không cùng chung ngữ hệ và được hai dân tộc có hai nền văn hóa khác nhau sử dụng, nhưng trong nhóm thành ngữ biểu thị cảm xúc vui ta vẫn thấy TRẦN THẾ PHI 113 có nét tương đồng về nghệ thuật ngôn từ, đó là vận dụng khá thành công lối nói thậm xưng, sử dụng hình ảnh sống động để khắc họa nên cảm xúc vui. 4.1.3. Sử dụng cấu trúc so sánh Điểm tương đồng thứ ba của hai nhóm thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị niềm vui là về nghệ thuật so sánh. Thành ngữ tiếng Anh sử dụng cấu trúc so sánh “as as” hoặc “like”. Còn trong tiếng Việt, thành ngữ so sánh theo mã thức tổng quát: “A như B”, trong đó A là đối tượng so sánh, B đối chứng so sánh, “như” là quan hệ so sánh. A bao giờ cũng hiển ngôn, B có thể là hàm ngôn. Phần lớn nguồn gốc sản sinh ra chúng gắn liền với những điển tích, câu chuyện dân gian, yếu tố ngoài ngôn ngữ. (Nguyễn Công Đức, 1996). Nhóm thành ngữ tiếng Việt biểu thị niềm vui có các thành ngữ: mừng như (hơn) cha chết sống lại (dậy), mừng như mở cờ trong bụng, vui như tết, v.v, còn nhóm thành ngữ tiếng Anh tương ứng có thành ngữ: as happy as a clam, as pleased as punch, be like a child in a sweetshop, like a cat that got the icecream, v.v. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến (2009, tr.158) cho rằng thành ngữ so sánh tiếng Việt phổ biến là từ “như”, còn những từ so sánh khác, chẳng hạn tựa, tựa như, như thể, bằng, tày chỉ xuất hiện hết sức ít ỏi. Trong số 53 thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc vui mà chúng tôi thu thập được thì có 60% (32 thành ngữ) có chứa từ “như”. Trong khi đó, ở nhóm thành ngữ tiếng Anh được khảo sát, chúng tôi thấy có 9 thành ngữ chứa từ “as” (chiếm 13,8%) và 6 thành ngữ có từ “like” (chiếm 9,2%). 4.2. Điểm khác biệt 4.2.1. Dùng từ chỉ bộ phận cơ thể khác nhau Việc lựa chọn tên bộ phận cơ thể thông qua khảo sát nhóm thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh cho thấy: người phương Tây thường dùng hình ảnh trái tim (heart), ví dụ như “gladden one’s heart” (làm vui trái tim của ai), “warm the cockles of sb's heart” (sưởi ấm vỏ bọc bên ngoài của trái tim ai), còn người Việt thì dùng lòng, bụng, dạ, ruột, gan để biểu thị niềm vui, chẳng hạn trong các thành ngữ “ mát lòng hả dạ, mừng như mở cờ trong bụng, mừng nở ruột nở gan, vui như nở từng khúc ruột”, v.v Thử xét hai nhóm thành ngữ này sẽ thấy có 8 thành ngữ tiếng Việt biểu thị vui sử dụng từ ruột, và 2 thành ngữ tiếng Anh tương ứng sử dụng từ tim. Tại sao lại có sự khác biệt lý thú như vậy? Ta thử tìm hiểu một vài sự lý giải cho hiện tượng khác biệt này dưới lăng kính ngôn ngữ học tri nhận. Theo Nguyễn Đức Dân (2011, tr. 253), lý thuyết ẩn dụ trong ngôn ngữ học hiện đại cho rằng con người là một vật chứa và thể hiện sự trải nghiệm thế giới vào ngôn ngữ. Tiếng Việt là một trường hợp điển hình. Với người Việt, cái bụng là vật chứa tiêu biểu, nó chứa đựng và thể hiện những gì thuộc phạm trù tinh thần. Trong tiếng Việt, bụng và những bộ phận của cái bụng như lòng, dạ, gan, ruột, trở thành biểu tượng cho phạm trù tinh thần. Chúng là một công cụ biểu hiện tư duy, tâm lý, tình cảm, ý chí, sức chịu đựng. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như Johnson (1987) , Lakoff & Johnson (1980), và Turner (1991) đã đưa ra nhận định khái quát trên cơ sở cơ thể học hay kinh nghiệm luận (the physical/ experiential basis) cho phép ẩn dụ hướng LÊN – XUỐNG. Họ quan sát thấy rằng cơ thể chúng ta thường được ưỡn thẳng lên khi chúng ta khỏe mạnh, tỉnh táo và đầy sức sống, và chúng BIỂU THỊ NIỀM VUI TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH 114 ta thường thu người lại khi chúng ta bị bệnh, lừ đừ hoặc chết. Tương tự như vậy, tư thế ưỡn thẳng lên thường xuất hiện với trạng thái cảm xúc tích cực, trong khi đó tư thế rũ người xuống thường thấy khi người ta có cảm xúc tiêu cực. Cụ thể hơn, theo hai nhà ngôn ngữ học người Mỹ Mc.Mullen và Conway (2002, tr.174), ẩn dụ phổ biến nhất là hướng LÊN – XUỐNG (UP – DOWN). Hướng LÊN hay ĐI LÊN (up or ascending) có liên quan với niềm vui (ví dụ: She's on top of the world – cô ấy ở trên đỉnh của thế giới), với nhận thức (ví dụ: He's an early riser – anh ta là người dậy sớm), với sức khỏe (ví dụ: She's in peak physical condition – cô ấy ở trong tình trạng thể lực đỉnh cao), với quyền lực và sức mạnh (ví dụ: He's at the top of the ladder – anh ấy ở đỉnh cao của bậc thang), và với tư cách đạo đức (ví dụ: She's an upstanding citizen – cô ấy là một người công dân đứng thẳng người – nghĩa là thẳng thắn). Trái lại, hướng XUỐNG hay ĐI XUỐNG (down or descending) lại có liên quan với nỗi buồn, phiền muộn, với trạng thái bất tỉnh, với vị trí thấp kém, với sự thiếu đức hạnh. Zoltan Kovecses (2004) thông qua việc phân tích xuyên ngôn ngữ một cách chi tiết đã minh họa nhiều khái niệm cảm xúc bằng các mô hình ẩn dụ ý niệm. Khi biểu thị niềm vui, bên cạnh ẩn dụ tri nhận với mô hình VUI LÀ HƯỚNG LÊN (HAPPINESS IS UP), một mô hình ẩn dụ khác VUI LÀ RỜI KHỎI MẶT ĐẤT (BEING HAPPY IS BEING OFF THE GROUND) cũng được sử dụng, chẳng hạn như “I was so happy my feet barely touched the ground” (Tôi hạnh phúc đến nỗi chân tôi không chạm đất), walk on air (đi trên không), on cloud nine (lên chín tầng mây), over the moon (lên cung trăng), jump for joy (nhảy lên vì vui sướng), be as high as a kite (bay cao như cánh diều), carry someone of his/her feet (nâng ai lên). Những phép ẩn dụ ý niệm về cảm xúc này xuất phát do sự tự trải nghiệm xảy ra nhiều lần, là lý do vì sao cảm xúc con người trong nhiều nền văn hóa khác nhau đều tuân thủ theo các quá trình sinh lý cơ bản trong cơ thể con người và phần cơ thể tương tác với thế giới bên ngoài, hay nói cách khác, các khía cạnh văn hóa về cảm xúc, ngôn ngữ ẩn dụ về cảm xúc, và tâm sinh lý của con người về cảm xúc hòa quyện vào nhau trong cùng một hệ thống. Trong trường hợp quan sát thành ngữ biểu thị cảm xúc vui của tiếng Anh được dẫn chứng bên trên, chúng tôi nhận thấy chúng cũng được xây dựng dựa trên trải nghiệm cơ thể hướng lên của con người chúng ta đã được nêu ở trên. Chẳng hạn như thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui mừng: (1) We had to cheer him up. (Chúng ta phải làm anh ta vui lên) (2) He’s been in high spirits all day. (Anh ta đã trong tâm trạng cao hứng suốt ngày) (3) I left the island with a light heart. (Tôi rời bỏ hòn đảo với một trái tim nhẹ nhàng) (4) Edward is not very cheerful; he needs a holiday to boost him up. (Edward thì không vui, anh ta cần một kỳ nghỉ để làm anh ta vui lên) Khảo sát thành ngữ tiếng Việt biểu thị niềm vui, chúng tôi phát hiện ra rằng tuy thành ngữ tiếng Việt chưa thể hiện rõ ẩn dụ ý niệm về hướng LÊN – XUỐNG của quan điểm ngôn ngữ học tri nhận như những phát hiện trong nhóm thành ngữ tiếng Anh tương ứng, nhưng ẩn dụ ý niệm này lại được tìm thấy nhiều ở các cụm từ cố định TRẦN THẾ PHI 115 hoặc tự do, ví dụ như: lên tinh thần, (gương mặt) sáng bừng lên, lên hương, bay bổng, v.v. 4.2.2. Đặc trưng văn hóa dân tộc Theo Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (2009, tr. 34-35), nghĩa của thành ngữ tiếng Việt có liên quan tới phong tục tập quán của người Việt có thể xem đó cũng là một loại nghĩa có từ nguyên. Thành ngữ là nơi biểu hiện đậm nét cách diễn đạt tư duy của người Việt, là nơi tập trung nhiều phong cách ngôn ngữ dân tộc, góp phần phục vụ có hiệu lực việc bổ sung vốn từ. Một số phát hiện qua khảo sát nhóm thành ngữ tiếng Việt biểu thị niềm vui có yếu tố văn hóa đặc trưng dân tộc như sau: - Quan niệm phương Đông: như mây gặp rồng, vui thú điền viên. - Các hoạt động hội hè: hội (Vui như trẩy hội), tết (Vui như Tết), cờ trống (Vui như mở cờ trong bụng, cờ mở trống giong), pháo (cười như pháo rang). - Nông thôn: buồn ngủ gặp chiếu manh, chết đuối vớ được cọc, - Động thực vật và thiên nhiên vùng khí hậu nhiệt đới Việt Nam: Có nếp mừng nếp, có tẻ mừng tẻ, vui như sáo, như cá gặp nước, như chim sổ lồng, như mèo thấy mỡ, cười như đười ươi giữ ống, như nắng hạn gặp mưa rào. Trong khi đó, nhóm thành ngữ tiếng Anh biểu thị niềm vui có cách dùng đặc trưng văn hóa của người Âu Mỹ rất khác biệt. Chẳng hạn như câu chuyện về thương gia (sandboy) trong thành ngữ as happy as a sandboy (vui như thương gia). Vào giữa thế kỉ 18 và 19, các “sandboys” này chuyên buôn cát cho các công trình xây dựng. Tuy việc vận chuyển cát là một công việc vất vả, nhưng niềm hạnh phúc của các “sandboys” lại nằm trong thành quả của nó. Với mỗi chuyến giao hàng thành công, họ lại tổ chức tiệc tùng, hát hò, nhảy múa say sưa thâu đêm suốt sáng. Hay như thành ngữ “the seventh heaven” (thiên đường thứ bảy), con số 7 trong các tư liệu về kinh thánh đề cập đến được xem như là sự hoàn thiện tuyệt vời (perfect completion). Trong đạo Hồi và đạo Do Thái, thì thế giới thiên đàng được chia thành 7 cảnh giới, và cảnh giới thứ 7 là cảnh giới tốt đẹp nhất. do vậy thành ngữ này có ý nghĩa là “cao điểm, trạng thái tốt nhất của tâm trạng.” Hoặc như thành ngữ “pleased as Punch” (hài lòng như Punch) - Punch là tên một nhân vật trong vở kịch rối “Punch and Judy shows” (những buổi diễn của Punch và Judy). Nhân vật Punch của thế kỷ 17 này là một kẻ tự kỷ và tự thích hài lòng mỗi khi hắn làm một việc xấu. Còn với thành ngữ “on cloud nine” (trên chín tầng mây), sự ra đời thành ngữ này được giải thích bằng hai giả thuyết. Theo giả thuyết phương Tây, “cloud nine” là cụm từ được dùng đầu tiên bởi Cục thời tiết của Mỹ (the US Weather Bureau) vào năm 1950 nhằm mô tả hiện tượng mây tích mưa trông rất đẹp. Một giả thuyết khác của phương Đông là từ đạo Phật khi cho rằng “cloud nine” (tầng thứ chín) là cõi niết bàn, một trong những cảnh giới cao nhất của quá trình được khai sáng trở thành đức Bồ Tát (người tu hành đắc đạo, đức độ cao dày, có lòng từ bi bác ái, cứu nhân độ thế, phổ độ chúng sinh). Do vậy nó được dùng với ý nghĩa là “rất vui”. 4.2.3. Cấu trúc Thành ngữ cảm xúc vui buồn của tiếng Việt thường có cấu trúc đối xứng, trong khi ở tiếng Anh thì hầu như ít gặp. Tính đối xứng của các thành tố của thành ngữ tiếng Việt – hay còn gọi là tính phi cú pháp là một đặc điểm đáng lưu ý củ