I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm
1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress
Stress là phản ứng của cơ thể trước những tác động không có lợi từ bên
trong hay bên ngoài. Trong chăn nuôi gia cầm, các tác nhân stress phổ biến là:
- Nhốt giữ và vận chuyển gà tới nơi tiêu thụ.
- Di chuyển đàn
- Tiêm phòng vaxin
- Thay lông cưỡng bức
- Cắt mỏ
- Thay đổi thời tiết (gặp nóng hoặc lạnh)
- Bệnh tật
- Thay đổi bầy đàn
Dưới sự tác động của những tác nhân trên, cơ thể gia cầm có nhiều phản
ứng tích cực của hệ thần kinh và thể dịch, nhằm duy trì sự cần bừng của cơ thể,
đó chính là phản ứng stress.
Như vậy, có thể thấy trong suốt quá trình chuăn nuôi gà, người ta gặp rất nhiều
tác nhân gây stress, hậu quả là con vật luôn phải căng mình ra để chống chọi với
các tác nhân đó, hậu quả là cơ thể tốn rất nhiều năng lượng, làm con vật gầy yếu
đi và có thể chết. Đặc biệt, ở những cá thể mà khả năng chống stress kém, sản
phẩm thịt và trứng có chất lượng giảm đi rõ rệt.
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, khi bổ sung vitamon C cho gia cầm, cơ
thể sẽ trở nên “trơ” với các tác nhân gây stress do đó, giảm tác hại của các tác
nhân này. Sau đây là cơ chế của quá trình đó.
38 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bổ sung vitamin C chống stress cho gia cầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
________________________________________________________________
BỔ SUNG VITAMIN C
CHỐNG STRESS
CHO GIA CẦM
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2010
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
2
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
_______________________________________________________________
PGS.TS. BÙI HỮU ĐOÀN
BỔ SUNG VITAMIN C
CHỐNG STRESS
CHO GIA CẦM
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2010
3
MỞ ĐẦU
I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm
1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress
Stress là phản ứng của cơ thể trước những tác động không có lợi từ bên
trong hay bên ngoài. Trong chăn nuôi gia cầm, các tác nhân stress phổ biến là:
- Nhốt giữ và vận chuyển gà tới nơi tiêu thụ.
- Di chuyển đàn
- Tiêm phòng vaxin
- Thay lông cưỡng bức
- Cắt mỏ
- Thay đổi thời tiết (gặp nóng hoặc lạnh)
- Bệnh tật
- Thay đổi bầy đàn
Dưới sự tác động của những tác nhân trên, cơ thể gia cầm có nhiều phản
ứng tích cực của hệ thần kinh và thể dịch, nhằm duy trì sự cần bừng của cơ thể,
đó chính là phản ứng stress.
Như vậy, có thể thấy trong suốt quá trình chuăn nuôi gà, người ta gặp rất nhiều
tác nhân gây stress, hậu quả là con vật luôn phải căng mình ra để chống chọi với
các tác nhân đó, hậu quả là cơ thể tốn rất nhiều năng lượng, làm con vật gầy yếu
đi và có thể chết. Đặc biệt, ở những cá thể mà khả năng chống stress kém, sản
phẩm thịt và trứng có chất lượng giảm đi rõ rệt.
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, khi bổ sung vitamon C cho gia cầm, cơ
thể sẽ trở nên “trơ” với các tác nhân gây stress do đó, giảm tác hại của các tác
nhân này. Sau đây là cơ chế của quá trình đó.
Sơ đồ hình thành và điều hoà hormon trong phản ứng stress.
Các tác nhân gây stress kích thích tạo nên phản ứng báo động, thông qua
vỏ não tác động đến vùng dưới đồi thị – Hypothlamus, tại đây các yếu tố giải
4
phóng được tiết ra, chẳng hạn CRF (Corticotropin Releasing Factor) kích thích
tuyến yên sản xuất ACTH, rồi ACTH kích thích vỏ thận thượng tăng cường hoạt
động.
Bản thân adrenalin cũng kích thích làm tăng sản xuất ACTH.
Việc tăng cường sản xuất các hormon vỏ thượng thận giữ vai trò quan
trọng trong cơ thể tự vệ của cơ thể. Selye đã chỉ ra rằng, các kích thích gây nên
phản ứng báo động không chỉ thúc đẩy hoạt động của vỏ thượng thận mà còn
ảnh hưởng đến việc sản sinh nhanh chóng adrenalin để rồi adrenalin lại tiếp tục
ảnh hưởng đến hoạt động của vỏ thượng thận. Sự chỉ đạo bởi ACTH xảy ra
tương đối chậm, nhưng lại kéo dài. Hormon vỏ thượng thận được sản xuất nhiều
hơn trong thời điểm tác nhân stress tác động, đã giúp tạo khuynh hướng thích
ứng cao của cơ thể (xem sơ đồ sau).
Khi có tác động mạnh từ bên ngoài vào cơ thể, cơ thể sẽ phản ứng lại
bằng nhiều phương thức, gồm có 2 nhóm phương thức: đặc hiệu và không đặc
hiệu.
Phản ứng đặc hiệu: thể hiện sự đáp ứng có giới hạn với những kích thích
đặc biệt, thí dụ sự hình thành kháng thể đặc hiệu chống lại kháng nguyên tương
ứng của vi khuẩn.
Phản ứng không đặc hiệu: có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn. Nó thể hiện
qua những dấu hiệu thông thường. Phản ứng cũng có thể xảy ra đồng thời với
phản ứng đặc hiệu trong cơ thể. Các dấu hiệu cơ bản của phản ứng không đặc
hiệu luôn luôn giống nhau và độc lập với chất lượng của tác động.
Selye đã gọi là sự đáp ứng không đặc hiệu thể hiện trong hậu quả bệnh lý
có quy luật này là stress và các tác nhân gây nên trạng thái bệnh lý trên là tác
nhân stress
5
(Stressor), gọi các phản ứng cơ bản đã thể hiện ra (giúp cơ thể thích ứng được
với các tác động) là “hội chứng thích ứng chung” (G.A.S – General Adaptation
Syndrone).
Cơ chế điều hoà giải phóng các hormon trong phản ứng stress
* Ba giai đoạn của phản ứng st
Selye đã phân chia phản ứng stress làm giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những
đặc trưng về sự biến đổi của cơ thể. Đó là giai đoạn phản ứng báo động, giai
đoạn đề kháng và giai đoạn suy kiệt.
Phản ứng báo động được chialàm 2 pha: Shock và kháng Shock. Sự kích
thích đã bắt đầu ngay trong giai đoạn này. Bạch cầu lâm ba giảm (Leucopenia),
bạch cầu ái toán giảm (eosinopenia), thân nhiệt và huyết áp giảm là điển hình
đặc trưng cho pha Shock bắt đầu. Những thay đổi này xảy ra rất nhanh. Sau tác
động của tác nhân stress 3 giờ, hàm lượng vitamin C trong vỏ thượng thận cũng
giảm đáng kể. 17. Cetosteroid trong nước tiểu tăng cao, chứng tỏ sự tăng cường
sử dụng các hormon Steroid.
6
Ở pha kháng Shock, huyết áp, đường huyết tăng cao, nhiệt độ cơ thể bình
thường trở lại.
Giai đoạn kháng thể các lực lượng tự vệ của cơ thể hoạt động ở mức độ
cao. Vỏ thượng thận sản xuất Glucocorticoid với số lượng lớn kéo theo dài và
duy trì, ưu năng vỏ thượng thận. Các tế bào Basophil sản xuất ACTH ở tuyến
yên hoạt động mạnh.
Giai đoạn suy kiệt nếu cơ thể không còn khả năng đề kháng, sự thích ứng
sẽ giảm sút và có thể chết.
Trong giai đoạn suy kiệt, những thay đổi có dấu hiệu thoái hoá của tuyến
yên và vỏ thượng thận xuất hiện. Sự phân giải protein tăng cao, sút cân, năng lực
sản xuất kém (tiết sữa, đẻ trứng giảm sút). Cơ thể sử dụng nguồn năng lượng
dự trữ. Cơ chế điều hoà thể hiện mạnh hơn và cuối cùng thì suy giảm thấp hơn
cả mức bình thường, tiến tới hoàn toàn bị phá hoại. Một số các triệu chứng ở
giai đoạn này giống như ở giai đoạn phản ứng báo động.
Selye Jannos gọi toàn bộ quá trình diễn biến của cơ thể trong 3 giai đoạn
nói trên là “Hội chứng thích ứng chung” (General Adaptation Syndrom) và viết
tắt là G.A.S. Nếu phân tích, xem xét kỹ G.A.S. sẽ thấy nổi lên một số ván đề
quan trọng về sức đề kháng của cơ thể. Căn cứ vào sự biến đổi này của các tế
bào vỏ thượng thận trong quá trình stress (được theo dõi liên tục), Selye đã xây
dựng mô hình 3 giai đoạn của stress:
* Stress (được theo dõi liên tục), Selye đã xây dựng mô hình 3 giai đoạn
của Stres
* Sức đề kháng của cơ thể trong mô hình 3 giai đoạn của stress
Về tác dụng của các tác nhân gây stress đến cơ thể, cần xem xét cả 2 loại
yếu tố: yếu tố trong cơ thể và ngoài cơ thể.
7
Yếu tố cơ thể như đặc điểm di truyền, khả năng có được, thu nhận được
trong quá trình sống. Gà ri có khả năng chống nóng ẩm, ít chịu tác động của
stress nóng là di truyền mà có.
Các yếu tố ngoài cơ thể như yếu tố thức ăn, khí hậu các yếu tố này là
yếu tố không đặc hiêu, tác động lên cơ thể và cơ thể phải đối phó với chúng.
Cần đánh giá đúng vai trò của các yếu tố cơ thể và ngoài cơ thể, không
nên xem nhẹ yếu tố nào. Có như vậy chúng ta mới hiểu được đầy đủ quá trình
stress và có những giải pháp kỹ thuật toàn diện để chống tác hại của stress ở
người và động vật nuôi.
* Vai trò của tuyến thượng thận trong phản ứng stress
Trong phản ứng cơ thể, tuyến thượng thận có vai trò đặc biệt quan trọng,
nó được cấu tạo bởi hai phần: phần tuỷ thượng và phần vỏ thượng thận.
+ Tuỷ thượng thận
Tuỷ thượng thận tiết ra 2 hormon đặc biệt là Adrenalin và Noradrenalin
(epinephrin và norepinephrin). Về mặt hoá học, adrenalin có nhiều hơn
noradrenalin một nhóm CH3.
Ngoài vùng tuỷ thượng thận, ở các hạch thần kinh giao cảm cũng sản xuất
2 hormon này. Tác dụng sinh lý của chúng hoàn toàn giống nhau (gọi chung là
catecholamin).
Khi cắt bỏ tuỷ thượng thận, các dấu hiệu thiểu năng adrenalin và
noradrenalin không thấy xuất hiện vì các hạch thần kinh giao cảm đã sản xuất
bù. Sự sản xuất các hormon này được điều tiết bởi thần kinh. Ở đoạn tiền hạch
sản xuất ra axetylcolin, chất này kích thích các tế bào tuỷ thượng thận sản xuất
adrenalin và noradrenalin.
Hoạt động của hypothalamus cũng có tác dụng thông qua tuỷ sống để chi
phối tuyến này.
Vai trò sinh lý của 2 hormon này có những điểm khác nhau: khi cơ thể
chịu những tác động đột ngột (gà bị bắt giữ chẳng hạn) sự sản xuất adrenalin sẽ
trội hơn. Nó đổ vào máu với số lượng lớn và tạo nên sự chênh lệch giữa nồng độ
8
của 2 hormon này. Trong điều kiện nồng độ bình thường, chúng đều làm co
mạch máu (trừ hôn mê, coronaria), làm tăng huyết áp. Nhưng với liều lượng
nhỏ, adrenalin lại làm dãn mạch máu trong cơ thể.
Các hormon tuỷ thượng thận làm tăng số lượng hồng cầu, tăng
Haematocrit và hàm lượng hemoglobin. Khi sản xuất quá thừa 2 hormon này sẽ
gây tăng bạch cầu trung tính và giảm bạch cầu ái toan.
Adrenalin cũng có tá dụng đến hệ thần kinh trung ương, làm tăng huyết áp
tâm thu, tăng nhịp tim, do đó làm tăng lượng máu tuần hoàn.
Noradrenalin ảnh hưởng ít đến lưu lượng máu. Song nó tác động kéo dài
thời gian co bóp tim và nâng cao huyết áp, không chỉ là huyết áp tâm thu mà cả
huyết áp tâm trương (huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu).
+ Vỏ thượng thận
Sản xuất nhiều loại hormon tác động đến sự cân bằng các chất điện giải,
độ dự trữ nước của cơ thể, sự trao đổi các chất hữu cơ và các hoạt động sinh
dục.
+ Các hormon có tác dụng chủ yếu điều tiết trao đổi các chất khoáng gọi
là Mineralocorticoid. Chất quan trọng được biết kỹ nhất là Aldosterol.
- Các hormon có tác dụng điều tiết trao đổi chuyển hoá chất các chất hữu
cơ, trước hết là phân huỷ các hydratcabon gọi là glucocorticoid. Thí dụ cortison;
hydrocortison; conrticosteron.
- Androgen, oestrogen ảnh hưởng đến các chức năng sinh dục. Thí dụ
aldosteron, testosteron, ostradiol.
Các hormon của vỏ thượng thận gọi là các corticoid. Về cấu tạo hoá học,
có một nhân chung là Cycopentano phenanthren, cũng giống như các hormon
sinh dục. Steroid có hoạt tính sinh học cao nhất là chất mà giữ carbon số 4 và số
5 của nhân Phenanthren có 1 nối đôi. Ở carbon số 3 có 1 oxy (nhóm xêto).
Aldrogen và eostogen ở C17 có một nhó oxy (còn gọi 17. xetosteroid).
Glucocorticoid và Mineralocorticoid ở vị trí C17 gắn một chuỗi dài hoặc có một
gốc hydroxyl (-OH).
9
Các Glucocorticoid được sản xuất do kích thích của ACTH tuyến yên và
sự điều hoà của cơ chế ngược (Feed – back). ACTH ít ảnh hưởng đến việc sản
xuất Mineralocorticoid. Tác dụng điều hoà sự sản xuất của Mineralocorticoid là
do trạng thái hypovolaemia và sự giảm thấp nồng độ các chất khoáng trong
huyết tương. Trạng thái hypovolaemia có các biểu hiện sau: khối lượng mái
không cân đối với khối lượng cơ thể và thấp hơn bình thường. Tỷ lệ giữa thẻ
tích huyết tương và Hematocrit (thể tích hồng cầu) cũng thay đổi. Khi gia súc
mất máu nhiều, cấp tính, hiện tượng hypovolaemia sẽ dẫn đến truỵ tim mạch,
shock. Ở các con gia súc béo quá, mà lượng máu không thay đổi, cũng tạo nên
sự mất cân đối này.
* Hoạt động của các hormon glyucocorticoid và mineralocorticoid
Hoạt động của các hormon vỏ thượng thận đã được nghiên cứu kỹ. Tất cả
các Steroid của vỏ chúng đều tác động đến trao đổi, chuyển hoá của các chất
hữu cơ và vô cơ.
+ Trao đổi chất hữu cơ
Các glucocorticoid về cơ bản có thể coi là chất đối kháng với insulin và
chúng là các hormon nâng cao đường huyết. Nhưng đồng thời chúng kích thích
sản xuất insulin. Khi ưu năng corticoid ta thấy hàm lượng insulin trong máu
cũng tăng cao (Campbell và Rastogi). Tiêm các corticoid, đường huyết sẽ cao
hơn bình thường và tăng cao đáng kể quá trình phân hủy glycogen.
Hàm lượng các hormon này tăng trong máu sẽ dẫn tới sự hấp thụ chất béo
ở ruột, sự phân huỷ các dầu, mỡ để thành chất béo tự do tăng lên, vì vậy nó làm
tăng nồng độ lipoil trong máu, dẫn tới sự lắng đọng, tích luỹ mỡ trong gan sẽ
tăng lên. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự tổng hợp các chất béo, sự
tích luỹ các chất béo tăng. Nhưng đồng thời cũng còn do hàm lượng
glucocorticoid cao đã kìm hãm, ức chế quá trình tổng hợp lypoptotein.
Do tác dụng của các corticoid nhóm này, hàm lượng các chất thể xeto
tăng lên trong cơ thể. Tác dụng của các corticosteroid cũng ảnh hưởng đến trao
10
đổi chất của các protein,ức chế tổng hợp protein, tăng cường phân giải protein,
đặc biệt là các protein ở các khu vực cơ và xương.
Nếu duy trì hàm lượng các hormon vỏ thượng thận cao, kéo dài ở trong cơ
thể sẽ gây nên chứng nhược cơ (cơ bị yếu), sút cân và chứng osteoporosis
(chứng mất cân đối tỷ lệ giữa các chất hữu cơ và các chất vô cơ để tạo xương).
Các axit amin được sử dụng ở mức độ cao trong gan, trước hết để tạo
glucogen. Hàm lượng ARN tăng cao đáng kể đã chứng tỏ sự tăng cường hoạt
động của gan. Hoạt độ của các enzym phosphataza kiềm và các transaminaza
tăng là biểu hiện những rối loạn cơ năng của các tế bào gan do dan bị tích mỡ.
Hàm lượng albumin huyết thanh giảm: còn hàm lượng các globulin do tác
dụng của các glucocorticoid, lúc đầu tăng sau đó giảm mạnh.
+ Trao đổi chất vô cơ
Khi có những rối loạn hoạt động của các hormon vỏ thượng thận, hậuquả
rõ nhất và quan trọng nhất là rối loạn chuyển hoá canxi.
Các thí nghiệm cắt bỏ vỏ thượng thận ở động vật cho thấy hàm lượng
canxi tăng trong máu (hypercalcaemia). Ngược lại khi hoạtđộng của tuyến tăng
lên thì sự hấp thụ canxigiảm rất rõ. Cũng do tác dụng hormon vỏ thượng thận,
sự hấp thụ và sử dụng vitamin D giảm. Có lẽ do tuyến phó giáp trạng bị ảnh
hưởng mà đưa tới quá trình này. Cortison còn phá hoại quá trình tái hấp thụ
photpho ở thận, vì thế P được thải nhiều ở nước tiểu. Do vậy mà sự thải canxi ở
thận cũng tăng đáng kể.
Từ các tư liệu trên cho thấy nếu duy trì hàm lượng các hormon vỏ thượng
thận cao kéo dài sẽ làm cạn kiệt các kho dự trữ canxi của cơ thể và hình thành
chứng osteoposis như đã nói ở trên.
Trong đó các steroid, aldosteron có tác dụng ảnh hưởng đến vận chuyển
Na và hàm lượng các chất điện giải nói chung rõ nhất, làm tăng tái hấp thụ Na ở
ống thận, làm tăng thải trừ K+, H+ và NH+4, kết quả là Na+ trong máu cao; K+
trong máu giảm.
11
Khi thiểu năng vỏ thượng thận, tình trạng trên sẽ ngược lại. Tỷ lệ Na/K
bình thường bị giảm rõ rệt. Do K+ cao nên có hại cho hoạt động của tim, còn khi
thiểu năng vỏ thượng thận, do Na giảm nên mất cân bằng dịch thể trong các tổ
chức. Tiếp theo là chứng mất nước, cân bằng nước lệch trái, nghĩa là tỷ lệ giữa
nước và các chất keo trong huyết tương thay đổi theo hướng máu bị cô đặc, tỷ
trọng nước tiểu sẽ tăng cao.
Tiêm liều cao glucocorticoid làm lượng tiểu thải ra, nhưng tỷ trọng nước
tiểu lại nhỏ hơn. Có lẽ do các glucocorticoid đã cản trở hoạt động của ADH.
* Ảnh hưởng đến các tế bào máu, công thức máu.
Sau khi tiêm glucocorticoid, ngày lập tức số lượng bạch cầu tăng cao
trong máu, chủ yếu là bạch cầu trung tính. Mức độ cortison cao làm phân huỷ
bạch cầu lympho và do đó số lượng bạch cầu này giảm trong máu. Như vậy, khi
ưu năng vỏ thượng thận sẽ gây nên chứng lymphopeina. Số lượng bạch cầu
eosinophil (ái toan) giảm và thông qua sự giảm này có thể đánh giá hoạt động
của vỏ thượng thân. Sau khi tiêm ACTH 4 -7 giờ, số lượng bạch cầu ái toan sẽ
mất giảm mất 70% (nghiệm pháp Thorn).
Theo nhiều kết nghiệm cứu của Jasper và Schalm trong trạng thái ưu năng
corticoid, sẽ xảy ra hiện tượng monocytosis và basophilia.
Do tác dụng của glucocorticoid, số lượng hồng cầu cũng tăng, quá trình
trao đổi chât tăng và do đó tăng tiêu thụ oxygen. Quan trọng hơn là khi số lượng
hồng cầu tăng, máu sẽ đặc lại, hoạt động của thận giảm, nồng độ carbamid trong
máu tăng.
* Các cơ thể khác
Các glucocorticoid có tác dụng chống viêm và chống dị ứng. Nó làm tính
thấm của các thành mao quản do đó không xuất hiện các dịch rỉ viêm.
Ngăn chăn rối loạn hoạt động tim do nó cản trở sự sản sinh ra histamin và
do đó làm tăng tác dụng của noradenalin.
Đẩy lùi sự xuất hiện histamin và các chất loại histamin là yếu tố quan
trọng có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm chứng viêm và giảm phản ứng dị ứng.
12
Với hàm lượng nhỏ glucocorticoid đã nâng hoạt tính của RSH – hệ thống
tế bào liên võng (Reticulo – histiocyta system). Với liều cao hơn, nó lại ngăn
cản thực bảo. Cũng như vậy, sự giảm khả năng di hành của các tế bào hạch cầu
(diapedesis) sẽ đồng thời làm giảm hoặc làm mất đi các phản ứng tự vệ của cơ
thể.
Các hormon vỏ thượng thận cản trở sự hình thành ranh giới viêm. Các quá
trình hồi phục bị chậm lại.
Các hormon của cả hai phần vỏ và tuỷ tuyến thượng thận đều tham gia
vào quá trình đáp ứng cơ thể đối với những tác động có hại của môi trường
sống. Mỗi loại hormon thể hiện theo quy luật riêng, chức năng riêng của chúng,
giúp cho cơ thể động vật duy trì ổn định và hoạt động sống bình thường.
Trong thực tiễn chăn nuôi gia cầm, luôn luôn xuất hiện các tác nhân stress
tác động lên cơ thể ở các mức đọ khác nhau, khi đơn độc, khi đồng thời và
việc cơ thể phải luôn “gồng” mình lên để đối phó với stress đã dẫn đến những
hậu quả tai hại, làm giảm năng suất, chậm lớn, giảm sản lượng và chất lượng
trứng, giảm chất lượng thân thịt
Từ những vấn đề nếu trên, chúng ta có thể thấy rằng việc loại bỏ các tác
nhân gây stress khỏi đời sống chăn nuôi là điều bất khả kháng. Tuy nhiên, nếu
như bằng cách nào đấy kiềm chế được sự phản ứng của cơ thể trước các tác
nhân này, chẳng hạn kiềm chế việc tiết ACTH của tuyến yên, từ đó kiềm chế
hoạt động của các tác nhân gây stress, từ đó làm tăng năng suất, chất lượng sản
phẩm, đó chínhlà nguyên lý của nhiều thí nghiệm mà các nhà khoa học và chăn
nuôi đã tiến hành trong thời gian gần đây và họ đã thu được các kết quả rất có ý
nghĩa.
b) Những nghiên cứu sử dụng vitamin C chống stress
Một trong những phương pháp kìm hãm sự hoạt động của tuyến thượng
thận như đã nói ở trên là bổ sung vitamin C, công việc này đã được tiến hành rất
có hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi trong chăn nuôi. Sau đây, chúng tôi xin
giới thiệu một số công trình đáng chú ý.
13
1- Công trình nghiên cứu của S.L. Parduem, Bộ môn chăn nuôi gia
cầm, Trạm thực nghiệm Taxas - Đại học Texas.
Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã cho thấy hàm lượng
vitamin C ở thượng thận cao hơn rất nhiều so với bất cứ mô bào nào khác. Ở
người, lượng vitamin C trong thượng thận có khoảng từ 400 – 500 mg/100g mô
bào (White và CTV, 1978). Hàm lượng chát này cao ở thượng thận đã thúc đẩy
người ta tìm hiểu chức năng của nó đối với tuyến này. Giroud và CTV (1940)
cho rằng việc tổng hợp các hormon vỏ thượng thận phụ thuộc vào lượng vitamin
C của thượng thận. Giả thiết này đã được chứng minh bằng thực nghiệm, trong
đó việc tiêm ACTH hoặc sự gây thương tích sẽ làm giảm cholesterol và vitamin
C ở chuột cống và chuột lang (Sayers và CTV, 1944, 1945; 1946). Long (1947)
đã xác nhận những phát hiện trên và cho thấy việc giảm vitamin C luôn đi kèm
theo với việc tăng tiết các hormon vỏ thượng thận.
Ở gà, các mô bào sản sinh các chất steroid nói chung và đặc biệt là thượng
thận luôn ó hàm lượng vitamin C cao nhất. Mức vitamin C trong thượng thận gà
đã được công bố trong khoảng 61 – 350 mg/100g mô bào, con số trung bình 178
mg/100g mô bào (Pardue và Thaxton, 1986); tuy nhiên, con số này chỉ bằng 40
– 50% so với hàm lượng vitamin C ở thượng thận người hay chuột; còn nếu so
với cơ gà, lượng này phải gấp tới 40 lần. Hơn nữa, so với động vật có vú thì
mức độ suy giảm vitamin C ở tuyến thượng thận gà thấp hơn và mức độ tái tổng
hợp lại tăng nhanh hơn (Freeman, 1967, 1968). Mặc dù mức độ suy kiệt và tốc
độ tổng hợp có vẻ là khác ở gia cầm, song về cơ bản thì sự thay đổi làm được
vitamin C ở thượng thận do các tác nhân stress khác nhau lại tương tự như
những gì đã được quan sát ở các loài có vú. Sự suy giảm vitamin C ở thượng
thận được coi là biểu hiện cổ điện cho đáp ứng stress ở gà (Siegel, 1971).
* Axit Ascorbic và sự tổng hợp các chất steroid
Sự cạn kiệt vitamin C tại các mô bào sản sinh chất steroid sau sự giải
phóng nội sinh hoặc tiếp nhận từ bên ngoài các hormon tuyến yên xảy ra ở một
số loài. Sự cạn kiệt vitamin C của buồng trứng xảy ra sau khi cung cấp LH hay
14
kích tố nhau thai người (HCG) (Cleasson và CTV, 1949; Hokfelt, 1950; Noach
và Van Rees, 1958; Parlow, 1958). Hơn nữa, Carballeira et al. (1974) đã chứng
minh r