Phần lớn tài liệu sưu khảo, công trình nghiên cứu về các tôn giáo bản địa ở Nam
Bộ nói chung, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương nói riêng, chỉ đề cập đến đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương do Đoàn Văn Huyên (Đoàn Minh Huyên) sáng lập. Tuy nhiên, trong
quá trình vận động và phát triển, tôn giáo này đã xuất hiện nhiều chi phái, trong
đó có chi phái Bửu Sơn Kỳ Hương Thường Lạc. Kế thừa về tư tưởng giáo lý từ
Bửu Sơn Kỳ Hương của Đoàn Minh Huyên nhưng chi phái Bửu Sơn Kỳ Hương
Thường Lạc có sự khác biệt. Bài viết tìm hiểu những nội dung cơ bản về Bửu
Sơn Kỳ Hương Thường Lạc qua các bình diện: sự ra đời, đặc điểm tư tưởng
giáo lý và nghi thức thờ cúng của chi phái.
14 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu tìm hiểu về chi phái Bửu Sơn Kỳ Hương Thường Lạc ở Tây Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
53
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ CHI PHÁI
BỬU SƠN KỲ HƯƠNG THƯỜNG LẠC Ở TÂY NAM BỘ
NGUYỄN TRUNG HIẾU*
MAI THỊ MINH THY**
Phần lớn tài liệu sưu khảo, công trình nghiên cứu về các tôn giáo bản địa ở Nam
Bộ nói chung, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương nói riêng, chỉ đề cập đến đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương do Đoàn Văn Huyên (Đoàn Minh Huyên) sáng lập. Tuy nhiên, trong
quá trình vận động và phát triển, tôn giáo này đã xuất hiện nhiều chi phái, trong
đó có chi phái Bửu Sơn Kỳ Hương Thường Lạc. Kế thừa về tư tưởng giáo lý từ
Bửu Sơn Kỳ Hương của Đoàn Minh Huyên nhưng chi phái Bửu Sơn Kỳ Hương
Thường Lạc có sự khác biệt. Bài viết tìm hiểu những nội dung cơ bản về Bửu
Sơn Kỳ Hương Thường Lạc qua các bình diện: sự ra đời, đặc điểm tư tưởng
giáo lý và nghi thức thờ cúng của chi phái.
Từ khóa: Bửu Sơn Kỳ Hương, Bửu Sơn Kỳ Hương Thường Lạc, Nguyễn Tấn Đắc,
tôn giáo bản địa ở Tây Nam Bộ
Nhận bài ngày: 17/10/2018; đưa vào biên tập: 20/11/2018; phản biện: 28/11/2018;
duyệt đăng: 20/2/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy luật cơ bản để tôn giáo tồn tại
trong đời sống xã hội là đòi hỏi tôn
giáo đó phải có sự vận động tương
thích với các nhu cầu của cộng đồng.
Tuy nhiên, cũng chính quá trình vận
động tương thích để tồn tại đã làm
cho tôn giáo không còn nguyên thể.
Sau khi giáo chủ Đoàn Minh Huyên
qua đời năm 1856, đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương đã có những thay đổi rất lớn ở
nhiều phương diện khác nhau, các chi
phái mới ra đời, trong đó chi phái Bửu
Sơn Kỳ Hương Thường Lạc là một
điển hình. Nghiên cứu này tập trung
làm rõ một số nội dung cơ bản của chi
phái này qua các bình diện về sự ra
đời, đặc điểm tư tưởng, giáo lý và
nghi thức thờ cúng để thấy được sự
tiếp biến qua Bửu Sơn Kỳ Hương nói
riêng và tôn giáo nói chung.
2. KHÁI QUÁT VỀ CHI PHÁI BỬU
SƠN KỲ HƯƠNG THƯỜNG LẠC
Là một trong những người kế thừa
Bửu Sơn Kỳ Hương do Đoàn Minh
Huyên sáng lập (gọi tắt là Bửu Sơn Kỳ
Hương) và phát triển chi phái Bửu
Sơn Kỳ Hương Thường Lạc là
Nguyễn Tấn Đắc (Đắt). Theo giáo sử,
ông sinh ngày rằm tháng tám năm
1920 tại làng Thường Lạc (nay là
phường An Lạc), quận Hồng Ngự (nay
là thị xã Hồng Ngự), tỉnh Đồng Tháp.
*
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An Giang.
**
Trường Đại học An Giang.
NGUYỄN TRUNG HIẾU - MAI THỊ MINH THY – BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ
54
Ngày rằm tháng Tám (âm lịch) năm
1938 ông bắt đầu dạy đạo và phổ
truyền giáo lý và lấy ngày này là ngày
khai đạo với tên gọi Phật giáo Bửu
Sơn Kỳ Hương, Bửu Sơn Kỳ Hương
Thường Lạc(1) hay Phật giáo Thường
Lạc...
Như chính ông Nguyễn Tấn Đắc giảng
thuyết, giáo lý của Bửu Sơn Kỳ
Hương Thường Lạc chủ yếu dựa trên
tư tưởng Tu Nhân theo Tứ Ân và Học
Phật - Tứ Ân đó là Ân tổ tiên cha mẹ,
Ân đất nước, Ân tam bảo, Ân đồng
bào nhân loại; Học Phật là làm theo
những điều Phật dạy, một lòng thờ
phụng, “tưởng nhớ Phật như ăn cơm
bữa”...; tín đồ tu theo hình thức “cư sĩ
tại gia”, lấy Tịnh độ (niệm Phật) làm
pháp tu chính như Bửu Sơn Kỳ
Hương. Tuy nhiên, cách thức thờ ở
chùa và ở nhà, về nghi thức,... của
Bửu Sơn Kỳ Hương Thường Lạc có
nhiều điểm khác biệt so với Bửu Sơn
Kỳ Hương; đó là vừa mang tính “hữu
vi” vừa mang tính “vô vi”, nghi thức
cúng mang đậm dấu ấn Phật giáo dân
gian
(2)
... Cách thức thờ, lễ cúng
thường niên... của chi phái này thì gần
giống với Phật giáo Bắc tông và Phật
giáo Hòa Hảo.
Trong quá trình truyền đạo, ông
Nguyễn Tấn Đắc viết nhiều bài kinh,
bài giảng giáo lý, bài kệ và những tài
liệu về nghi thức hành đạo... cho tín
đồ theo đó tu tập.
Hiện nay chưa có thống kê chính thức
về số lượng tín đồ Bửu Sơn Kỳ
Hương Thường Lạc. Theo số liệu của
Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Tháp, toàn
tỉnh có 615 tín đồ; còn theo tư liệu
điền dã của chúng tôi, ở xã Phú Túc
(Châu Thành, Bến Tre) khoảng 586
tín đồ(3). Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương
Thường Lạc sinh sống rải rác phần
lớn ở một số địa phương như:
phường An Lạc (thị xã Hồng Ngự, tỉnh
Đồng Tháp), xã Phú Ninh (huyện Tam
Nông, tỉnh Đồng Tháp), xã Phú Túc
(huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre), xã
Bình Qưới (huyện Châu Thành, tỉnh
Long An), xã Thanh Phú Long (huyện
Châu Thành, tỉnh Long An), xã Mỹ
Phú (huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An).
Bửu Sơn Kỳ Hương Thường Lạc
được công nhận pháp nhân hoạt động
vào năm 2008 ở phạm vi cấp xã.
Theo thống kê chính thức của Ban Trị
sự Trung ương Bửu Sơn Kỳ Hương
Thường Lạc thì chi phái Thường Lạc
có 6 ngôi chùa đang hoạt động: Chùa
Bửu Sơn Kỳ Hương Trung ương
Thường Lạc ở phường An Lạc, thị xã
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; Chùa Bửu
Sơn Kỳ Hương Thường Lạc ở xã Phú
Ninh, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng
Tháp; Thánh đường Bửu Sơn Kỳ
Hương (còn gọi: Cư xá Giáo chủ) ở
xã Bình Quới, huyện Châu Thành, tỉnh
Long An; Chùa Bửu Sơn Kỳ Hương ở
xã Phú Túc, huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre; Chùa Bửu Sơn Kỳ Hương ở
xã Thanh Phú Long, huyện Châu
Thành, tỉnh Long An; Chùa Bửu Sơn
Kỳ Hương ở xã Mỹ Phú, huyện Thủ
Thừa, tỉnh Long An.
3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ TƯ TƯỞNG
GIÁO LÝ CỦA CHI PHÁI BỬU SƠN
KỲ HƯƠNG THƯỜNG LẠC
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
55
3.1. Tư tưởng Tịnh độ tông và
Thiền tông, lấy Tịnh độ (niệm Phật)
làm chủ đạo
Từ khi ra đời đến nay, đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương chịu ảnh hưởng rất lớn tư
tưởng - hình thức tu hành của pháp
môn Tịnh độ thuộc Phật giáo Bắc tông.
Có thể cho rằng đạo này là tông phái
Phật giáo “dĩ Tịnh vi tông” (lấy Tịnh độ
làm tông tu chính).
Đến đầu thập niên 1940, tư tưởng -
pháp tu Tịnh độ của Bửu Sơn Kỳ
Hương được người sáng lập Bửu
Sơn Kỳ Hương Thường Lạc kế thừa.
Ông luôn khuyên dạy việc niệm Phật
cho các tín đồ của mình thông qua
những câu thi giảng hay biện giải giáo
lý: “Di đà phải niệm cho thường/Đó là
sáu báu ráng đem vào lòng/Tìm ra
sáu nghĩa cho thông/Đặng mà sửa
tánh trừ ma nơi mình/Di đà sáu chữ
giữ nơi tâm/Chẳng chấp đứng đi, lại
với nằm/Thường niệm khi nào cơn
giận nóng/Nhớ luôn dằn tánh, nạn
không lâm” (Phật giáo Bửu Sơn Kỳ
Hương Việt Nam liên tôn phái hiệp
nhất, 2010: 34, 58).
Ông Nguyễn Tấn Đắc cũng đưa ra
diễn ngôn rõ ràng về tư tưởng, pháp
môn hành đạo, về mối quan hệ giữa
“cảnh tịnh” và “tâm tịnh” qua việc
“niệm Phật”: “Tịnh là do lòng mình
Thanh Tịnh trước cảnh nghịch của
phồn hoa đô hội. Trước cảnh giàu
sang, danh vọng, quyến rũ mà lòng
mình không đam mê, tiêm nhiễm, đổi
dời,... Như thế mới là Thanh Tịnh. Tìm
nơi vắng vẻ đó là Cảnh Tịnh” (Phật
giáo Bửu Sơn Kỳ Hương Việt Nam
liên tôn phái hiệp nhất, 2010: 208). Có
thể thấy, ông Nguyễn Tấn Đắc dạy tín
đồ của mình xem hiện thực cuộc sống
thế tục là thử thách trên con đường tu
tập và hành đạo bằng cách niệm Phật
hằng ngày. Đây là pháp tu nhẹ nhàng,
gần gũi với đời sống người nông dân
Tây Nam Bộ trong bối cảnh họ vừa lo
cái ăn, cái mặc vừa phải đối diện với
nhiều sự biến động của xã hội. Đồng
thời, những câu thi giảng truyền dạy
tín đồ niệm Phật của ông cũng dễ đi
vào lòng người, đáp ứng sở thích “đọc
thơ”, “ngâm thơ”, “nói thơ”... của tín
đồ (phần đông là nông dân).
Bên cạnh lấy pháp tu “Tịnh độ” (niệm
Phật) làm trung tâm, giáo lý của Bửu
Sơn Kỳ Hương Thường Lạc cũng thể
hiện tư tưởng - pháp tu Thiền tông, và
cũng giống như Bửu Sơn Kỳ Hương,
“thiền” của chi phái này chủ yếu được
thực hành trong đời sống thế tục,
hằng ngày sống ngay thẳng, nhường
nhịn mọi người, ngay cả khi đứng
trước nghịch cảnh theo câu “Dù ai
nặng nhẹ trăm điều/Quyết không bỏ lý
cao siêu của Thầy”. Theo đó, “tâm
ngộ tức là Thiền”: “Tu ngộ Phật tâm
khỏi dãi dầu/Tu là cội phúc phải cần
âu/Tu không ép xác, ngồi ca tụng/Tu
chẳng hành thân, cúng lạy cầu/Tu gốc
sửa mình trau hạnh nết/Tu rèn ý chí
thoát mê sầu/Tu nhơn, tích đức, luôn
trong sạch/Tu thế thành công, chứng
đạo mầu” (Phật giáo Bửu Sơn Kỳ
Hương Việt Nam liên tôn phái hiệp
nhất, 2010: 18)... Hay, việc quán
tưởng Phật pháp đi liền với suy
nghiệm về đời tục, đạt đến cảnh giới
NGUYỄN TRUNG HIẾU - MAI THỊ MINH THY – BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ
56
cuối cùng là con người cần làm tròn
“Đạo nhân”(4) - “đạo làm người” ở đời
sống thế tục: “Mỗi ngày cúng 2 lần,
buổi sáng và buổi tối. Sau khi thắp
hương cầu nguyện xong, đọc bài
nguyện Quy y Phật, để yên tịnh 5 phút.
Suy nghiệm lại coi, ngày và đêm qua
ta đã làm việc gì đúng, việc gì sai, với
kinh kệ, với Lời răn cấm với Chơn lý
Phật, việc đúng ngày sau phải làm
thêm, việc sai ngày sau phải sửa: Cứ
mỗi ngày hai lần kiểm điểm mình”
(Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương Việt
Nam liên tôn phái hiệp nhất, 2010:
159).
3.2. Tư tưởng Nho - Phật song hành
Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn đến
ứng xử xã hội của tín đồ và tư tưởng
giáo lý các tôn giáo bản địa ở Nam Bộ.
Không chỉ trong thời kỳ đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương (1849) mà đến những thập
niên đầu thế kỷ XX, tư tưởng Nho
giáo luôn có địa vị vững chắc trong
đời sống xã hội Nam Bộ, nên nó đã
ảnh hưởng sâu đậm đến nhận thức
của những người sáng lập các chi
phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Và tư tưởng
Nho giáo quan trọng nhất ở buổi giao
thời này vẫn là những giá trị về đạo
làm người: tam cang, ngũ thường;
nhân - lễ - nghĩa - trí - tín; trung,
hiếu,... Ông Nguyễn Tấn Đắc đã dung
nạp và “thiêng hóa” những giá trị Nho
giáo đó vào triết lý tôn giáo mà ông
thuyết giảng. Những lời giảng mang
đậm tư tưởng Nho giáo của ông thể
hiện rõ điều này: “Nhơn đạo - Tam
cang gìn vẹn giữ/Ngũ thường năm
mối, dạ đừng lay/Nước non oằn oại
đôi vai gánh/Trung hiếu lo tròn chớ đổi
thay” (Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương
Việt Nam liên tôn phái hiệp nhất, 2010:
103).
Trong Mười điều khuyên cấm ông
giảng giải: “Một là gìn giữ chữ
Trung/Thương dân mến nước hiệp
cùng mới xinh (...)/Hai là chữ Hiếu
phải lo/Mẹ cha dạy phải đắn đo phải
nài (...)/Ba là chữ Lễ vẹn toàn/Kính
trên nhường dưới, rõ ràng mới hay
(...)/Bốn là chữ Nghĩa chẳng quên/Sẵn
lòng cứu giúp, chẳng cần công ơn
(...)/Năm là chữ Nhẫn sáng
ngời/Thương người lao khổ, cũng thời
như ta (...)/Sáu là chữ Tín cho
nguyên/Nhìn xa thấy rộng, hung phiền
phân minh” (Phật giáo Bửu Sơn Kỳ
Hương Việt Nam liên tôn phái hiệp
nhất, 2010: 129, 130).
Qua khảo sát tổng thể hệ thống giáo
lý của ông Nguyễn Tấn Đắc, những
lời giáo thuyết điển hình mang tư
tưởng luân lý Nho giáo như các
trường hợp ở trên. Từ đó có thể
khẳng định, tư tưởng Nho giáo đã
song hành với tư tưởng Phật giáo ở
chi phái Bửu Sơn Kỳ Hương Thường
Lạc.
4. NGHI THỨC THỜ CÚNG CỦA CHI
PHÁI BỬU SƠN KỲ HƯƠNG THƯỜNG
LẠC
4.1. Thờ ở chùa
Biểu tượng thờ chính và đối tượng
phối thờ trong chùa Bửu Sơn Kỳ
Hương Thường Lạc do ông Nguyễn
Tấn Đắc quy định có nhiều khác biệt
so với Bửu Sơn Kỳ Hương. Tuy nhiên,
qua thời gian, do nhu cầu tâm linh của
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
57
tín đồ, cách thức thờ đã có sự biến
đổi; có nơi đặc điểm thờ đã vượt khỏi
những quy định ban đầu. Chúng tôi đã
khảo sát, tìm hiểu về biểu tượng, đối
tượng thờ và cách thức bày trí bàn
thờ của Bửu Sơn Kỳ Hương Thường
Lạc trong vài ngôi chùa điển hình.
Chùa Bửu Sơn Kỳ Hương Trung ương
Thường Lạc và chùa Bửu Sơn Kỳ
Hương Thường Lạc
Tại chùa Bửu Sơn Kỳ Hương Trung
ương Thường Lạc và chùa Bửu Sơn
Kỳ Hương Thường Lạc ở xã Phú Ninh
gần đó, các đối tượng thờ lần lượt là:
Ở trung tâm chính điện, trên cao nhất
của bàn thờ là dòng chữ khẩu hiệu:
“Ngôi Tam Bảo Trời Phật Thánh Tiên
Tam giáo quy hiệp nhất” và bài Kệ do
ông Nguyễn Tấn Đắc đặt ra được in
trên giấy màu đỏ: “Trời Phật Thánh
Tiên dạy một mầu/Dạy đời đoàn kết
biết thương nhau/Tuy rằng nhiều đạo
nhiều phe phái/Chơn lý suy ra có khác
nào”. Kế đến là bàn thờ với hình
tượng Tam Thế Phật và Phật Thích
Ca; dưới cùng là bàn thờ Tam giáo
chủ biểu hiện bằng hình ảnh: Đoàn
Minh Huyên (bên trái), Nguyễn Tấn
Đắc (giữa) và Trạng trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm (bên phải). Bàn thờ được
bài trí đơn giản với lư hương, hoa,
đăng, chuông...
Ông Nguyễn Tấn Đắc đã thay đổi biểu
tượng tôn giáo và đối tượng thờ so
với Bửu Sơn Kỳ Hương. Dòng chữ
mang tính biểu tượng và đối tượng
thờ cũng như cách thức bài trí bàn
thờ ở trung tâm ngôi chùa thể hiện
quan niệm dung hợp, biến đổi của
Bửu Sơn Kỳ Hương Thường Lạc mà
trong di ngôn của ông Nguyễn Tấn
Đắc có đề cập: “Sở dĩ không thờ Trần
đỏ là vì, trước đây Bửu Sơn Kỳ
Hương của Phật Thầy Đoàn Minh
Huyên thờ Trần đỏ, sau đến Phật giáo
Hòa Hảo thờ Trần dà, do vậy, giáo
chủ Nguyễn Tấn Đắc muốn phân biệt
nên thờ hình tượng Phật Thích Ca.
Với ý nghĩa dù là nhiều chi nhánh
nhưng lấy giáo lý tu hành của Phật
vẫn là chủ yếu”(5), (6).
Qua biểu tượng và đối tượng thờ ở
chính điện, nếu không tự xưng danh
đạo là Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương
thì khó có thể nhận diện được đây là
một chi phái tôn giáo có nguồn gốc từ
Bửu Sơn Kỳ Hương. Biểu tượng và
đối tượng phối thờ của Bửu Sơn Kỳ
Hương Thường Lạc đã thay đổi hoàn
toàn biểu tượng thờ Trần điều “vô vi”
của Bửu Sơn Kỳ Hương. Tuy nhiên,
dòng chữ biểu tượng cho thấy dấu ấn
Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn còn hiển lộ
thông qua khẩu hiệu: “Trời Phật
Thánh Tiên Tam giáo quy hiệp nhất”.
Tư tưởng “tam giáo quy hiệp nhất”
này vốn xuất phát từ quyển Sấm
giảng người đời mười một hồi của
ông Sư Vãi Bán Khoai - một tín đồ của
Bửu Sơn Kỳ Hương mà ông Nguyễn
Tấn Đắc đã được thụ học. Trong
quyển Sấm giảng người đời, quan
niệm về tam giáo quy hiệp nhất - quy
Phật giáo - Nho giáo - Đạo giáo (Phật -
Thánh - Tiên) về một mối, được thể
hiện rất rõ từ câu khai đề cho đến lời
hiệu kết thúc.
Đối diện bàn thờ Tam giáo - Phật
Thích ca là bàn thờ Các vị giáo chủ
NGUYỄN TRUNG HIẾU - MAI THỊ MINH THY – BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ
58
lãnh đạo các tôn giáo theo tinh thần
“Liên tôn phái hiệp nhất”. Bàn thờ
không “hình nhân tượng cốt”, chỉ đặt
bài Kệ được in trên giấy của ông
Nguyễn Tấn Đắc làm biểu tượng thờ:
“Thương đời lòng ấy rộng bao la/Tôn
phái cùng chung cứu nước nhà/Công
đức nghìn đời soi dấu mãi/Ghi ân
gương ấy khắc lòng ta”.
Bên trái là bàn thờ Vạn dân bá tánh
và các vị anh hùng tử sĩ, với bài Kệ
của ông Nguyễn Tấn Đắc được in trên
giấy: “Giác ngộ chẳng lòng đi rẽ
phân/Tôn thờ lẽ phải với lòng nhân/
Ghi ân kẻ trước người sau gắng/Gìn
giữ làm theo chứng bậc thần”.
Bên phải là bàn thờ Cửu Huyền Thất
Tổ ông bà chung cũng đặt bài Kệ của
ông Nguyễn Tấn Đắc được in trên
giấy: “Đất nước ông cha đã dựng
nên/Giống nòi chung máu lý nào
quên/Ai người thức tỉnh lo tròn
phận/Là biết thương nhau gọi đáp
đền”.
Bên ngoài chùa là bàn thờ Thông
thiên một tầng theo tín ngưỡng dân
gian thờ Trời của người Việt Nam Bộ.
Ngoài ra, có chùa còn thờ hình tượng
Phật Bà Quán Thế Âm, cụ thể như:
chùa Bửu Sơn Kỳ Hương Trung ương
Thường Lạc (phường An Lạc, thị xã
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp), Bửu Sơn
Kỳ Hương Thường Lạc xã Phú Ninh
(huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp),
chùa Bửu Sơn Kỳ Hương Thường
Lạc xã Thanh Phú Long (huyện Châu
Thành, tỉnh Long An)...
Các bàn thờ được bài trí đơn giản với
lư hương, đèn và bình hoa.
Đây được xem là cách bài trí, chọn
lựa biểu tượng, đối tượng thờ của ông
Nguyễn Tấn Đắc sau thời gian khai
đạo (Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương
Việt Nam liên tôn phái hiệp nhất, 2010:
154, 155). Biểu tượng và các đối
tượng phối thờ của Bửu Sơn Kỳ
Hương Thường Lạc, về đặc điểm nội
dung và hình thức còn lưu giữ dấu
tích của Bửu Sơn Kỳ Hương, đó là
ngôn ngữ biểu tượng “Tam giáo quy
nguyên - Ngũ chi hiệp nhất”; ý thức về
Vạn dân bá tánh, về Tổ quốc và gia
đình (Ân Tổ tiên cha mẹ, Ân Đất
nước); về tinh thần đoàn kết Ân Đồng
bào nhơn loại (thờ giáo chủ các tôn
giáo),... Nhưng, biểu tượng và các đối
tượng thờ của chi phái này cũng thể
hiện rõ ý thức biến đổi so với nguồn
gốc như thay vì chỉ thờ Trần điều với
triết lý “vô vi” như Bửu Sơn Kỳ Hương,
chi phái này không thờ Trần điều mà
thờ hình/tượng Tam Thế Phật và Phật
Thích Ca ở vị trí trung tâm, thể hiện
tính “hữu vi”; và thờ các bài Kệ do ông
Nguyễn Tấn Đắc đặt ra.
Tuy nhiên, cách thức bài trí bàn thờ
và biểu tượng, các đối tượng phối thờ
như quy định của ông Nguyễn Tấn
Đắc qua thời gian có nhiều thay đổi do
tâm lý dung hợp thần linh, nhu cầu
niềm tin tâm linh của tín đồ trước sự
tác động của Phật giáo Bắc tông, Phật
giáo Hòa Hảo và các thần linh trong
tín ngưỡng dân gian. Sự dung hợp,
biến đổi này xuất hiện ở các ngôi chùa
do đệ tử tạo dựng sau khi rời thầy về
quê nhà sinh sống, truyền đạo. Điển
hình như các chùa Phú Túc, Mỹ Phú,
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019
59
Thanh Phú Long..., một mặt vẫn giữ
cách thức thờ truyền thống, mặt khác
dung nạp thêm nhiều biểu tượng, đối
tượng phối thờ khác vừa mang tín
ngưỡng dân gian, vừa mang yếu tố
Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Hòa
Hảo hay Bửu Sơn Kỳ Hương. Cụ thể:
Chùa Phú Túc
Cách thức, đối tượng thờ ở chùa này
hoàn toàn được “tượng hóa”, pha lẫn
giữa Phật giáo Bắc tông và tín
ngưỡng dân gian. Tín đồ nơi đây thay
câu tôn chỉ “Trời Phật Thánh Tiên
Tam giáo quy hiệp nhất”, bài Kệ và
hình tượng Tam Thế Phật, Phật Thích
ca vốn nằm ở trung tâm chính điện
bằng hai hình tượng thờ Thiên Hoàng
và Địa Mẫu (còn gọi thờ Cha, thờ
Mẹ)(7); kế đến là bàn thờ Tam giáo
quy hiệp nhất với các tượng Phật -
Thánh - Tiên xếp từng hàng và bày
biện nhiều hiện vật trên bàn thờ như:
hình rồng, cặp hạc, chuông, mõ, kinh,
lộc bình, chuỗi, xăm quẻ... Tên gọi
ngôi chùa cũng thể hiện tính chất
dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu dân
gian vào thần điện tôn giáo: “Kim
Thuyền Hoàng Mẫu - Bửu Sơn Kỳ
Hương”, có nghĩa là hình tượng Mẫu
(Mẹ - Địa) và Thiên Hoàng (Cha - Trời)
trở thành đối tượng thờ trung tâm của
chùa. Thiên Hoàng và Địa Mẫu là ý
niệm lưỡng phân về vũ trụ trong tín
ngưỡng dân gian và Đạo giáo - về
Trời với linh thể tối cao là Ngọc Hoàng
(Cha) và Đất là Mẹ - Địa Mẫu. Đây là
ý niệm Âm và Dương sinh ra vạn vật
và con người nơi vũ trụ. Trong thần
điện Cao Đài giáo, Thiên Hoàng và
Địa Mẫu còn gọi Đức Chí Tôn hay
Diêu Trì Kim Mẫu cũng có ý nghĩa
tương tự như vậy: “Diêu Trì Kim Mẫu
là đấng giữ phân nửa quyền lực của
Đức Chí Tôn, do Đức Chí Tôn tạo ra
để làm chủ Âm quang và tạo hóa ra
Vạn linh nơi cõi Thiêng liêng vô hình,
sau đó, cho Vạn linh đầu kiếp xuống
các Địa cầu tạo thành Vạn vật, tức là
chúng sanh” (Huỳnh Ngọc Thu, 2017:
87).
Ngoài ra, ở ngôi chùa này, các đối
tượng phối thờ như: Phật Di Lặc, Tam
Thế Phật, Hộ Pháp... đều được
“tượng hóa” to lớn, bài trí dày đặc
trong tự điện ở các vị trí khác nhau
không theo một quy cách nào. Các đối
tượng thờ truyền thống của chi phái
đã “lẫn khuất” vào một góc nhỏ của
chùa hoặc không còn tồn tại.
Chùa Mỹ Phú
Dù có sự dung hợp với tín ngưỡng và
tôn giáo khác nhưng cách thức thờ
của chùa đơn giản hơn, vẫn giữ
nguyên mô thức thờ của ông Nguyễn
Tấn Đắc với bốn bàn thờ truyền thống
như chùa Trung ương Thường Lạc và
chùa Phú Ninh. Tính dung hợp ở chùa
này được thể hiện qua các điểm như:
Ở chính điện, bàn thờ “Trời Phật
Thánh Tiên Tam giáo quy hiệp nhất”,
ngoài tượng Phật Thích Ca còn có
biểu tượng Trần dà của đạo Phật giáo
Hòa Hảo; ở tầng dưới là bàn thờ Tam
giáo chủ: Đoàn Minh Huyên (trái) -
Nguyễn Tấn Đắc (giữa) - Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (phải) và phối thờ
hình ảnh Đức Bổn sư núi Tượng Ngô
Lợi - giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
NGUYỄN TRUNG HIẾU - MAI THỊ MINH THY – BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ
60
Đối diện bàn thờ ở chính điện là bàn
thờ Giáo chủ lãnh đạo các tôn giáo,
ngoài đặt hình ông Nguyễn Tấn Đắc
và bài Kệ còn có biểu tượng Trần dà
và bức ảnh ông Huỳnh Phú Sổ - giáo
chủ đạo Phật giáo Hòa Hảo.
Hai bên bàn thờ Giáo chủ lãnh đạo
các tôn giáo là bàn thờ thờ tượng
Long Thần và Hộ pháp.
Chùa Thanh Phú Long
Cách bài trí bàn thờ ở chính điện của
chùa đặc biệt mang tính chất hợp lưu
các dòng tôn giáo giữa “cựu” và “tân” -
vừa Bửu Sơn Kỳ Hương, vừa Phật
giáo Bắc tông, vừa Bửu Sơn Kỳ
Hương Thường Lạ