Các hình thức rèn luyện kĩ năng viết sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông

1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ngữ văn là môn học công cụ giúp học sinh (HS) phát huy năng lực (NL) bản thân. Trong đó phần Làm văn là một bộ phận không tách rời của Chương trình Ngữ văn. Làm văn cùng với Đọc văn là hai hoạt động quan trọng nhất của việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường trung học phổ thông (THPT). Phân môn làm văn với NL tạo lập văn bản là một NL đặc trưng của môn học cần được chú ý. Trong đó kĩ năng viết là mục tiêu quan trọng mà trường phổ thông phải hướng tới khi rèn luyện NL tạo lập văn bản cho HS. 1.2. Chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015 sẽ được xây dựng theo định hướng hình thành và phát triển NL cho HS. Trong đó, NL giao tiếp đóng một vai trò trọng yếu và trong NL giao tiếp thì kĩ năng viết (NL bộ phận) rất được coi trọng. Như thế, có thể thấy việc đề xuất và tìm hiểu về các hình thức rèn luyện kĩ năng viết góp phần thực hiện yêu cầu của định hướng đổi mới giáo dục. 1.3. Viết sáng tạo (VST) giúp HS không bị áp đặt theo khuôn mẫu, cố gắng tư duy, tưởng tượng và mạnh dạn bày tỏ chính kiến là cách thức hữu hiệu để phát huy tính chủ động, sáng tạo riêng. Từ việc vận dụng những cách thức trên, HS tự tạo thêm cơ hội để hoàn thiện khả năng tư duy sáng tạo, phản biện trước nhiều phương diện của cùng một vấn đề. Như vậy, VST là cơ sở để hình thành và phát huy NL cho HS mà trước tiên là NL giao tiếp. 1.4. Đã có một số bài viết đề cập việc rèn luyện cho HS kĩ năng VST, các hướng ra đề mở và đề xuất các hình thức thay đổi cách đánh giá chấm điểm bài viết của HS. Tuy nhiên, việc thực hiện các đề xuất đó và tổ chức các hoạt động trong lớp giúp cho HS rèn luyện kĩ năng viết chưa được quan tâm nhiều. Việc triển khai các hình thức rèn luyện kĩ năng VST ở bậc THPT vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu đúng mức. Chúng tôi cho rằng việc tìm hiểu và cụ thể hóa việc tiến hành tổ chức các hình thức rèn luyện kĩ năng VST cho HS sẽ giúp các em thực sự được luyện viết thường xuyên, hiệu quả. Từ những lí do và yêu cầu trên, chúng tôi chọn vấn đề “CÁC HÌNH THỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG” làm đề tài nghiên cứu.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các hình thức rèn luyện kĩ năng viết sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm học 2015 - 2016 121 CÁC HÌNH THỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Đỗ Đinh Linh Vũ, Đỗ Gia Linh (Sinh viên năm 2, Khoa Ngữ văn) GVHD: ThS Lê Thị Ngọc Chi 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ngữ văn là môn học công cụ giúp học sinh (HS) phát huy năng lực (NL) bản thân. Trong đó phần Làm văn là một bộ phận không tách rời của Chương trình Ngữ văn. Làm văn cùng với Đọc văn là hai hoạt động quan trọng nhất của việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường trung học phổ thông (THPT). Phân môn làm văn với NL tạo lập văn bản là một NL đặc trưng của môn học cần được chú ý. Trong đó kĩ năng viết là mục tiêu quan trọng mà trường phổ thông phải hướng tới khi rèn luyện NL tạo lập văn bản cho HS. 1.2. Chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015 sẽ được xây dựng theo định hướng hình thành và phát triển NL cho HS. Trong đó, NL giao tiếp đóng một vai trò trọng yếu và trong NL giao tiếp thì kĩ năng viết (NL bộ phận) rất được coi trọng. Như thế, có thể thấy việc đề xuất và tìm hiểu về các hình thức rèn luyện kĩ năng viết góp phần thực hiện yêu cầu của định hướng đổi mới giáo dục. 1.3. Viết sáng tạo (VST) giúp HS không bị áp đặt theo khuôn mẫu, cố gắng tư duy, tưởng tượng và mạnh dạn bày tỏ chính kiến là cách thức hữu hiệu để phát huy tính chủ động, sáng tạo riêng. Từ việc vận dụng những cách thức trên, HS tự tạo thêm cơ hội để hoàn thiện khả năng tư duy sáng tạo, phản biện trước nhiều phương diện của cùng một vấn đề. Như vậy, VST là cơ sở để hình thành và phát huy NL cho HS mà trước tiên là NL giao tiếp. 1.4. Đã có một số bài viết đề cập việc rèn luyện cho HS kĩ năng VST, các hướng ra đề mở và đề xuất các hình thức thay đổi cách đánh giá chấm điểm bài viết của HS. Tuy nhiên, việc thực hiện các đề xuất đó và tổ chức các hoạt động trong lớp giúp cho HS rèn luyện kĩ năng viết chưa được quan tâm nhiều. Việc triển khai các hình thức rèn luyện kĩ năng VST ở bậc THPT vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu đúng mức. Chúng tôi cho rằng việc tìm hiểu và cụ thể hóa việc tiến hành tổ chức các hình thức rèn luyện kĩ năng VST cho HS sẽ giúp các em thực sự được luyện viết thường xuyên, hiệu quả. Từ những lí do và yêu cầu trên, chúng tôi chọn vấn đề “CÁC HÌNH THỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG” làm đề tài nghiên cứu. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 122 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Trên phương diện lí thuyết Chúng tôi đã khảo sát những tài liệu sau  Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông (Hoàng Hòa Bình chủ biên, 2014)  Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn (Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang Ninh – Trần Ngọc Thêm, 1985)  Phương pháp dạy học tiếng Việt (Lê A chủ biên, 2001)  Giáo trình phương pháp dạy và học kĩ năng làm văn (Mai Thị Kiều Phượng, 2009)  Phương pháp dạy học làm văn (Nguyễn Đăng Châu, 2013)  Triết lí giáo dục của John Dewey: nhu cầu tất yếu cho sự đổi mới giáo dục toàn diện ở Việt Nam (Nguyễn Thủy Tiên, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, kì 1 – 02/2015);  Quy trình phát triển NL sáng tạo trong tạo lập văn bản nghị luận dành cho HS giỏi môn Ngữ văn (Nguyễn Thị Thanh Thi, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, kì 2 – 02/2016) 2.2. Trên phương diện thực tiễn Chúng tôi tìm hiểu những tài liệu sau  Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản (Taffy E. Raphael – Efrieda H. Hiebert, 2007)  Đề văn và việc rèn luyện NL VST cho HS giỏi văn (Đỗ Ngọc Thống, 2014).  Tài liệu chuyên văn – 3 tập (Đỗ Ngọc Thống, 2014) 2.3. Nhận xét Khi điểm qua một vài giáo trình dạy học Ngữ văn nói chung và làm văn nói riêng, chúng tôi nhận thấy rằng giai đoạn trước vẫn chưa có giáo trình dạy làm văn nào đề cập một cách cụ thể về kĩ năng VST; hoặc nếu như có đề cập thì cũng khá mờ nhạt, chưa thể là cơ sở để trở thành những hướng dẫn về mặt PP cho GV. Còn trong giai đoạn gần đây, đã có một số giáo trình bước đầu cụ thể hóa lí thuyết về VST (khái niệm VST, phương pháp dạy học (PPDH) VST, một số dạng đề VST...) Thực tiễn cho thấy việc rèn luyện kĩ năng VST ngày càng được xã hội quan tâm, nhiều hình thức mang tính mở đầu cho việc rèn luyện VST đã được đề cập, cụ thể là việc ra đề theo hướng mở, hình thức viết nhật kí trong việc dạy học Ngữ văn ở trường THPT. 3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các hình thức VST gắn với hệ thống bài học tiếng Việt làm văn trong SGK THPT hiện hành, trong đó tập trung vào bốn hình thức (viết nhật kí, viết ngắn, sáng tác văn học, viết hợp tác). Mỗi hình thức được nghiên cứu từ các Năm học 2015 - 2016 123 phương diện như vai trò, đặc điểm, một số dạng đề cụ thể và gợi ý về cách tổ chức và kiểm tra đánh giá để phục vụ cho việc rèn luyện kĩ năng VST. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu  Bước đầu cụ thể hóa lí thuyết các hình thức rèn luyện kĩ năng VST.  Đề xuất các hình thức rèn luyện kĩ năng VST khả thi, phù hợp với HS THPT.  Tiến hành thực nghiệm kiểm chứng hiệu quả thực tế của các hình thức đã đề xuất. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Phương pháp (PP) nghiên cứu tài liệu là PP thu thập thông tin thứ cấp thông qua các tài liệu có sẵn. Chúng tôi sử dụng PP này để tổng hợp cơ sở lí thuyết của các tác giả về dạy học làm văn, hệ thống lại các hình thức viết đang áp dụng trong chương trình hiện hành từ đó xây dựng những hình thức rèn luyện kĩ năng VST phù hợp cho HS THPT hiện nay. 4.2. Phương pháp thực nghiệm Sử dụng PP này, chúng tôi tiến hành thực nghiệm một số hình thức VST ở Trường THPT Châu Thành (Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Bắt đầu từ việc xây dựng các mẫu đề thử nghiệm, trao đổi với GV về việc thực nghiệm, sau đó chúng tôi cho 218 học sinh (cả ban tự nhiên và ban cơ bản) thuộc hai khối lớp 10 và 11 làm các đề thử nghiệm. Qua kết quả thực nghiệm chúng tôi muốn đánh giá khả năng VST của HS, mức độ phù hợp, khả thi của các hình thức VST mà chúng tôi đã đề xuất, đồng thời rút kinh nghiệm cho việc áp dụng các hình thức này vào dạy làm văn ở trường phổ thông. 4.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Chúng tôi thiết kế bảng hỏi dành cho hai đối tượng khảo sát gồm: HS làm các đề thử nghiệm và HS không làm các đề thử nghiệm. Việc khảo sát được tiến hành đồng thời giữa hai nhóm đối tượng và diễn ra sau khi chúng tôi hoàn thành việc cho HS viết các đề thử nghiệm. Bảng khảo sát gồm hai phần: phần đánh giá của HS về các dạng đề VST mà chúng tôi đã thực nghiệm (chỉ dành cho nhóm HS có tham gia thực nghiệm) và phần đánh giá về hoạt động làm văn ở trường THPT hiện hành (dành cho cả hai nhóm đối tượng). Vận dụng PP này, chúng tôi mong muốn nhận được sự đánh giá của HS về các hình thức viết trong chương trình hiện hành cũng như các hình thức VST mà chúng tôi đề xuất. Ngoài ra chúng tôi cũng cần nhận được sự phản hồi của HS về thái độ, sở thích đối với từng hình thức, từ đó có thể hệ thống được các hình thức rèn luyện VST phù hợp. 5. Nội dung nghiên cứu 5.1. Cơ sở lí luận 5.1.1. Khái quát về “viết sáng tạo” Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 124  Về khái niệm, trên cơ sở tổng hợp quan điểm, phân tích kết quả nghiên cứu của các tác giả Hoàng Phê, Trần Thị Hiền Lương, Trần Văn Lợi, Ali Hale có thể hiểu VST là kĩ năng biểu đạt suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, trí tưởng tượng của người viết ở các dạng văn bản khác nhau.  Về vai trò, trong việc dạy học làm văn ở trường THPT, việc VST giúp cho người viết phát huy NL và phẩm chất cá nhân: cụ thể là phát huy sự chủ động trong tư duy, phát huy cá tính sáng tạo trong việc nêu ý kiến và tìm cách lập luận để thuyết phục mọi người đồng tình với ý kiến của bản thân; đồng thời tạo ra những cách nhìn mới, đa dạng đối với vấn đề được đặt ra. Đối với việc viết ở nhiều dạng văn bản khác nhau, VST góp phần thay đổi quan niệm gò bó về làm văn “là phần rèn luyện cho HS tập làm những văn bản văn học” [1, 185]; không chỉ thế, việc rèn luyện NL tạo lập các dạng văn bản khác nhau còn có vai trò phục vụ cho mục đích giao tiếp, ứng dụng trong đời sống xã hội. Ngoài những vai trò trên, VST còn giúp HS thấy được chức năng và giá trị của hoạt động viết, bồi đắp xúc cảm nghệ thuật, kích thích trí tưởng tượng đồng thời cũng là cơ hội để HS có thêm trải nghiệm và thư giãn. HS có cơ hội tự do lựa chọn chủ đề và cách viết, phát triển trình độ nhận thức và kĩ năng giao tiếp của mình. Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng VST cho HS THPT vừa giúp các em trau dồi kĩ năng làm văn vừa tạo cơ hội cho các em nhận được những giá trị khác ngoài môn học. 5.1.2. Hình thức tổ chức các hoạt động dạy “viết sáng tạo”  Dạng bài viết: Qua số liệu thống kê, chúng tôi nhận thấy chương trình hiện hành đã tạo nhiều cơ hội cho HS luyện viết với các hình thức đa dạng, bao gồm bài nghị luận về vấn đề xã hội, bài nghị luận về vấn đề văn học, bài tự sự (một câu chuyện đã học hoặc chuyện tưởng tượng), bài thuyết minh, nhật kí, thư, bài phỏng vấn (viết câu hỏi phỏng vấn và viết câu trả lời phỏng vấn), tin ngắn (mẩu tin), một số dạng viết ngắn khác (điểm sách, điểm phim) Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy sự chênh lệch về mức độ sử dụng các hình thức trong quá trình luyện viết của HS. Cụ thể là, một số hình thức được sử dụng thường xuyên để luyện viết như bài nghị luận về vấn đề xã hội, bài nghị luận về vấn đề văn học, bài tự sự, bài thuyết minh. Trong khi đó, các hình thức khác như nhật kí, thư, bài phỏng vấn (viết câu hỏi phỏng vấn và viết câu trả lời phỏng vấn), tin ngắn (mẩu tin), một số dạng viết ngắn khác (điểm sách, điểm phim) thì chưa được sử dụng thường xuyên.  Hình thức viết: Bên cạnh việc dạy viết bằng các dạng bài viết khác nhau, chúng tôi cũng khảo sát ý kiến của HS về việc dạy viết qua các hình thức viết. Bảng 1. Thống kê mức độ sử dụng các hình thức tổ chức luyện viết Câu hỏi Câu trả lời Số lượng HS lựa chọn đáp án Tỉ số % Trong quá trình làm văn, em đã từng được tổ chức viết theo hình thức nào dưới đây? (có thể chọn nhiều đáp án) Viết cá nhân 217 79.2 Viết theo cặp 61 22.3 Viết theo nhóm 104 38 Năm học 2015 - 2016 125 Từ thống kê bảng hỏi trên, ta thấy HS thường được luyện viết cá nhân, ít có cơ hội viết theo cặp hay viết theo nhóm.  Hình thức kiểm tra đánh giá: Trong cách thức kiểm tra đánh giá NL của HS, các đề kiểm tra đánh giá còn mang tính khuôn mẫu, đánh giá NL của HS thông qua việc kiểm tra khả năng tái hiện nội dung bài học, ghi nhớ kiến thức đã được giảng dạy. Các đề thường có yêu cầu khá giống nhau. Ngoài ra, cách ra đề vẫn còn nhiều hạn chế trong việc đưa lệnh làm bài. Yêu cầu của một bài văn nghị luận thường chỉ dùng một số thao tác lập luận nhất định để giải quyết vấn đề, cụ thể như “hãy phân tích”, “hãy chứng minh”, “hãy bình luận” Trong khi đó, ít có bài văn nào chỉ dùng riêng lẻ giải thích, chứng minh hoặc một thao tác lập luận. Như vậy, việc tập trung viết bài theo thao tác nhất định mà đề yêu cầu sẽ làm HS bị gò bó; từ đó khó có thể VST. Hơn nữa việc đưa ra lệnh làm bài một cách cứng nhắc sẽ hạn chế khả năng tư duy, sáng tạo và thu hẹp cơ hội bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân trong bài viết của HS. 5.2. Đề xuất các hình thức rèn luyện kĩ năng VST cho HS 5.2.1. Viết nhật kí  Vai trò  Đặc điểm  Một số dạng đề  Gợi ý về cách thức tổ chức và kiểm tra đánh giá 5.2.2. Viết ngắn  Vai trò  Đặc điểm  Một số dạng đề  Gợi ý về cách thức tổ chức và kiểm tra đánh giá 5.2.3. Sáng tác văn học  Vai trò  Đặc điểm  Một số dạng đề  Gợi ý về cách thức tổ chức và kiểm tra đánh giá 5.2.4. Viết hợp tác  Vai trò  Đặc điểm  Một số dạng đề  Gợi ý về cách thức tổ chức và kiểm tra đánh giá 5.3. Thực nghiệm kiểm chứng hiệu quả thực tế của các hình thức đã đề xuất 5.3.1. Mục đích thực nghiệm Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 126  Bước đầu đánh giá về khả năng VST của HS thông qua những đề VST được đề xuất.  Qua phản hồi của HS về những đề VST trong bảng câu hỏi khảo sát, chúng tôi đánh giá mức độ hứng thú và sự quan tâm của HS đối với những dạng đề VST.  Rút ra những kết luận về tính khả thi, hiệu quả của các đề thực nghiệm.  Thông qua việc nhận xét, đánh giá một cách khách quan kết quả thực nghiệm thu được, chúng tôi muốn rút ra những kinh nghiệm đối với việc rèn luyện kĩ năng VST cho HS THPT. 5.3.2. Mô tả thực nghiệm  Bước 1: Thiết kế mẫu đề cho các dạng đề của hình thức luyện viết đã đề xuất.  Bước 2: Gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với GV về các vấn đề liên quan đến việc thực nghiệm. Đồng thời, cung cấp bản hướng dẫn để GV tiến hành thực nghiệm cho đúng tiến độ và yêu cầu.  Bước 3: Thu bài thực nghiệm, thống kê kết quả và đánh giá.  Bước 4: Tiến hành cho HS làm bảng câu hỏi khảo sát. 5.3.3. Địa điểm thực nghiệm Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm các đề VST ở 7 lớp tại Trường THPT Châu Thành (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu): Lớp 10 Lớp 11 Ban tự nhiên Ban cơ bản Ban tự nhiên Ban cơ bản 10A1 10B2, 10B4, 10B5, 10B9 11A1 11B4 5.3.4. Kết quả thực nghiệm Khi làm các đề VST, hầu hết bài làm văn của HS đều có thể đáp ứng được yêu cầu cơ bản của việc VST là tự do bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc và trí tưởng tượng: Bảng 2. Thống kê số lượng bài viết sáng tạo đạt yêu cầu Dạng đề Bài đạt yêu cầu Tổng số bài Tỉ số % Viết nhật kí đọc sách 35 35 100 Viết nhật kí hành trình 19 26 73.1 Viết điểm sách 47 55 85.5 Viết điểm phim 33 35 94.3 Viết cảm nhận về một tình tiết trong tác phẩm 39 39 100 Viết bài phỏng vấn 26 28 92.9 Qua phản hồi của HS về những đề VST trong bảng câu hỏi khảo sát, chúng tôi nhận thấy hầu hết HS có hứng thú với các dạng đề VST mà chúng tôi thực nghiệm. Năm học 2015 - 2016 127 Bảng 3. Thống kê ý kiến đánh giá về các hình thức viết thực nghiệm Các hình thức Số HS làm bảng hỏi Câu trả lời Rất thích Bình thường Không thích Nhật kí đọc sách 34 13 = 38.2% 21 = 61.8% 0 Bài phỏng vấn (viết câu hỏi phỏng vấn và viết câu trả lời phỏng vấn) 9 2 = 22.2% 6 = 66.6% 1 = 11.1% Một số dạng viết ngắn khác (điểm sách, điểm phim, cảm nhận về môt chi tiết trong tác phẩm) 83 39 = 47% 39 = 47% 5 = 6% Mặc dù đã cố gắng chọn lựa và xây dựng những dạng đề phù hợp nhưng trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi vẫn còn nhiều thiếu sót: vẫn còn các dạng đề khác và hình thức sáng tác văn học chưa được thực nghiệm; ngoài ra việc thực nghiệm chỉ thực hiện được một lần chưa đánh giá được thành quả của quá trình nên cần phải rút kinh nghiệm trong việc tổ chức rèn luyện cho HS. 6. Kết luận 6.1. Đóng góp của đề tài Đề tài đã nghiên cứu và khẳng định vai trò thiết thực của các hình thức VST. Dựa trên cơ sở nghiên cứu, chúng tôi bước đầu đã cụ thể hóa lí thuyết về VST, trình bày vai trò của VST đối với việc học tập bộ môn Ngữ văn và đối với việc phát triển NL người học trong định hướng giáo dục hiện nay. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng lần lượt làm rõ những ưu điểm và hạn chế của việc dạy VST ở trường THPT với ba khía cạnh là PPDH, hình thức tổ chức các hoạt động dạy VST và hình thức kiểm tra đánh giá. 6.2. Một số lưu ý cho GV khi sử dụng những hình thức VST đã đề xuất GV cần nghiên cứu, xem xét tình hình cụ thể của từng lớp học, đối tượng HS để áp dụng các hình thức luyện viết phù hợp. Ngoài ra, VST không chỉ là sáng tạo về nội dung mà GV cũng cần chú trọng cho HS về việc đảm bảo các quy tắc về chính tả, ngữ pháp và phong cách ngôn ngữ. 6.3. Hướng phát triển của đề tài việc nghiên cứu về dạy học VST cần được xem xét và có định hướng phát triển cụ thể hơn. Cụ thể, đề tài này cần được triển khai nghiên cứu ở bậc THCS; đối sánh kết quả thực nghiệm giữa HS trường chuyên và trường bình thường, ở hai chương trình Ngữ văn cơ bản và nâng cao. Có như vậy, chúng tôi tin kết quả đạt được sẽ hoàn thiện hơn, đóng góp tích cực hơn trong việc rèn luyện NL tạo lập văn bản cho HS nói riêng và đổi mới PPDH Ngữ văn nói chung. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 128 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê A (chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán (2001), Phương pháp dạy học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Hoàng Hòa Bình (chủ biên), Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Hiền Lương, Vũ Nho, Nguyễn Thị Phương Thảo, Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Thị Hồng Vân (2014), Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 3. Taffy E. Raphael, Efrieda H. Hiebert (2007), Lê Công Tuấn, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Thị Hồng Nam, Trương Thị Ngọc Điệp, Phạm Việt Tiến, Trần Minh Tuấn, Hồng Lư Chí Toàn (dịch), Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản, Nxb Đại học Sư phạm. 4. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 5. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), Phạm Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Nương, Nguyễn Thị Hồng Vân (2007), Hệ thống đề mở Ngữ Văn 10, Nxb Giáo dục, Huế. 6. Đỗ Ngọc Thống (2014), Tài liệu chuyên văn, 3 tập, Nxb Giáo dục Việt Nam.