Tóm tắt. Hoạt động học trên lớp của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo tín chỉ
mang những đặc điểm đặc trưng. Để có thể đánh giá một cách chính xác và toàn
diện những hoạt động này nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho đội ngũ cán bộ quản
lí, giảng viên và bản thân sinh viên, cần xác định những tiêu chí cụ thể và rõ ràng.
Các lí thuyết đánh giá hoạt động học hiện đang được phổ biến trên thế giới như
Lí thuyết bốn mức độ đánh giá hoạt động học của Donals L Kirtpatrick, Phân loại
hoạt động học tập của Benjamin Bloom và Bảy nguyên tắc thực hành hiệu quả của
Arthue W Chickering & Zelda F Gamson là những lí thuyết nền tảng. Bài báo đã
nghiên cứu vận dụng những lí thuyết này để xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt
động học của sinh viên nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các lí thuyết đánh giá hoạt động học và hướng vận dụng đánh giá hoạt động học của sinh viên sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 106-114
This paper is available online at
CÁC LÍ THUYẾT ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG HỌC VÀ HƯỚNG VẬN DỤNG
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG HỌC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Hoạt động học trên lớp của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo tín chỉ
mang những đặc điểm đặc trưng. Để có thể đánh giá một cách chính xác và toàn
diện những hoạt động này nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho đội ngũ cán bộ quản
lí, giảng viên và bản thân sinh viên, cần xác định những tiêu chí cụ thể và rõ ràng.
Các lí thuyết đánh giá hoạt động học hiện đang được phổ biến trên thế giới như
Lí thuyết bốn mức độ đánh giá hoạt động học của Donals L Kirtpatrick, Phân loại
hoạt động học tập của Benjamin Bloom và Bảy nguyên tắc thực hành hiệu quả của
Arthue W Chickering & Zelda F Gamson là những lí thuyết nền tảng. Bài báo đã
nghiên cứu vận dụng những lí thuyết này để xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt
động học của sinh viên nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng.
Từ khóa: Hoạt động học, sinh viên sư phạm, đánh giá hoạt động học, các lí thuyết
đánh giá hoạt động học.
1. Mở đầu
Đại hội XI của Đảng đã xác định việc đổi mới căn bản toàn diện nền Giáo dục Việt
Nam trong đó cần thiết phải thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các
bậc học. Ở bậc đại học, đặc biệt là trong môi trường đào tạo học theo chế tín chỉ, mặc dù
kiểm định chất lượng đang được coi trọng và trở thành một đề tài gây tranh cãi nhưng việc
kiểm định chỉ đang dừng lại ở mức độ đánh giá giảng viên là chủ yếu, đối tượng sinh viên
nói chung và hoạt động học của sinh viên nói riêng vẫn chưa được đề cập đầy đủ.
Bên cạnh đó, thực trạng hoạt động học của sinh viên nói chung và sinh viên sư
phạm nói riêng vẫn còn rất nhiều bất cập do sinh viên chưa chủ động, tích cực và tự giác
tham gia vào quá trình dạy học, hay nói cách khác, sinh viên chưa thực học. Một trong
những nguyên nhân của tình trạng đó là việc người dạy cũng như các nhà nghiên cứu giáo
dục chỉ quan tâm đến kết quả học tập của sinh viên mà không theo suốt quá trình học của
họ. Thực tế cho thấy, mặc dù vấn đề đánh giá hoạt động học theo cách tiếp cận quan điểm
Tác giả liên lạc: Nguyễn Hoàng Đoan Huy, địa chỉ e-mail: nguyenhoangdoanhuy@gmail.com
106
Các lí thuyết đánh giá hoạt động học và hướng vận dụng đánh giá hoạt động học của sinh viên...
quá trình không còn là vấn đề mới mẻ nhưng hiện nay vẫn chưa thể thực hiện hiệu quả ở
các trường đại học.
Trong khi đó, lí luận dạy học trên thế giới có rất nhiều lí thuyết tiếp cận về đánh giá
hoạt động học. Trên cơ sở những lí thuyết đó, hệ thống tiêu chí đánh giá giờ học của sinh
viên cần được xây dựng nhằm giúp cho giáo viên và nhà nghiên cứu có cái nhìn đầy đủ và
chính xác về thực trạng quá trình học tập của sinh viên trên lớp, qua đó đổi mới và điều
chỉnh các tác động giáo dục cho phù hợp.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Hoạt động học trên lớp của sinh viên sư phạm trong đào tạo theo
tín chỉ
Ở bậc đại học, nhu cầu học tập của sinh viên khác với học sinh các lớp nhỏ và cũng
khác với học viên người lớn. Nếu học sinh học tập chủ yếu là do ham hiểu biết, học viên
người lớn (công chức) gắn liền việc học tập với công việc trong hoạt động thực tiễn của
bản thân, thì sinh viên đại học lại có sự dung hòa giữa cả hai nhu cầu học tập đó. Bởi
do giai đoạn ở trường đại học là sự chuyển giao giữa môi trường học tập và môi trường
làm việc, sinh viên thường cho thấy mục đích học tập của họ không chỉ để thỏa mãn nhu
cầu ham học hỏi, khám phá thế giới xung quanh mà còn nhằm giải quyết công việc trong
tương lai gần, khi các em bước vào cuộc sống. Xét về bản chất, quá trình học tập của sinh
viên ở bậc đại học là quá trình nhận thức có tính nghiên cứu. Điều này đã được thể chế
hóa trong Luật giáo dục như sau: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng
năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn
luyện kĩ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng” [1].
Sinh viên học tại trường sư phạm để sau này làm nghề dạy học. Đó là công việc có
đối tượng là những nhân cách đang trong thời kì phát triển với những mục đích, động cơ,
ước mơ, năng lực, sở trường và trình độ nhận thức không giống nhau. Điều này đòi hỏi
người giáo viên tương lai cũng phải mang đầy đủ các phẩm chất và năng lực cần thiết để
đảm bảo những nhân cách đó được giáo dục một cách toàn diện. Do đó, khối lượng tri
thức, kĩ năng và thái độ mà sinh viên sư phạm cần được trang bị để đủ điều kiện trở thành
một giáo viên là rất chuyên biệt và phức hợp.
Bên cạnh đó, trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, giáo viên không còn là
người nắm độc quyền về tri thức bởi vì học sinh của họ có thể dễ dàng tìm thấy những
thông tin học tập cũng như hầu hết tri thức của nhân loại thông qua sách báo, mạng
Internet. Do vậy, người giáo viên nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng cần không
ngừng tự học hỏi, rèn luyện để không chỉ mở rộng kiến thức và nâng cao trình độ chuyên
môn mà còn cập nhật những công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình dạy học; như vậy
mới đủ năng lực để giải quyết các tình huống trong giáo dục, dạy học mà mình đảm trách,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của một người thầy trong thời đại mới.
107
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của đổi mới giáo dục đại học, nhiều
trường đại học đã và đang triển khai mô hình đào tạo theo học chế tín chỉ. Phương thức
đào tạo này coi trọng vai trò trung tâm của sinh viên, tạo cho sinh viên năng lực chủ động,
sáng tạo trong phương pháp học của mình. Hình thức tổ chức dạy học trong phương thức
tín chỉ qui định hoạt động tự học của sinh viên như là một thành phần bắt buộc trong thời
khóa biểu và là một nội dung quan trọng của đánh giá kết quả học tập. Hoạt động dạy -
học trong học chế tín chỉ được tổ chức theo ba hình thức: lên lớp, thực hành và tự học.
Nếu hoạt động tự học trong học chế niên chế chỉ mang tính chất tự nguyện thì phương
thức đào tạo theo học chế tín chỉ coi tự học là một thành phần bắt buộc phải có trong hoạt
động học tập của sinh viên.
Đào tạo theo học chế tín chỉ là hình thức đào tạo phổ biến trên thế giới hiện nay.
Với quy trình đào tạo có tính chất mềm dẻo, lấy người học làm trung tâm, chương trình
đào tạo theo tín chỉ tạo cho người học tính chủ động cao trong việc lựa chọn kiến thức để
trang bị cho bản thân và lựa chọn tiến trình học tập phù hợp với năng lực của mình. Tuy
nhiên, thực tế việc triển khai đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học nói chung và các
trường đại học sư phạm nói riêng vẫn đang gặp phải nhiều bất cập. Trong đó, ngoài những
vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách, công tác tổ chức, các yếu tố cơ bản của quá trình
dạy học bao gồm hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên cũng đang
tồn tại nhiều việc cần điều chỉnh và thay đổi.
Ngoài ra, thực trạng hoạt động học của sinh viên nói chung và sinh viên sư phạm
nói riêng vẫn còn rất nhiều bất cập do sinh viên chưa chủ động, tích cực và tự giác tham
gia vào quá trình dạy học, hay nói cách khác, sinh viên chưa “thực học”. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng đó là việc người dạy cũng như các nhà nghiên cứu giáo dục
chỉ quan tâm đến kết quả học tập của sinh viên mà không theo suốt quá trình học của họ.
Mặc dù vấn đề đánh giá hoạt động học theo cách tiếp cận quan điểm quá trình không còn
là vấn đề mới nhưng hiện nay vẫn chưa thể thực hiện hiệu quả ở các trường đại học.
2.2. Vai trò của việc đánh giá hoạt động học trên lớp của sinh viên trong
đào tạo theo tín chỉ
Thực vậy, trong quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng nhằm
xác định mức độ hiểu biết về kiến thức, kĩ năng và khả năng vận dụng của người học. Trên
giảng đường đại học, việc đánh giá hoạt động học tập trên lớp của sinh viên có ý nghĩa
to lớn không chỉ đối với bản thân người học mà còn đối với đội ngũ giảng viên và cán bộ
quản lí nhà trường.
* Đối với cán bộ quản lí: Kết quả đánh giá hoạt động học trên lớp của sinh viên có
thể là căn cứ giúp cán bộ quản lí trường học xác định mức độ tham gia quá trình dạy học
của sinh viên cũng như năng lực sư phạm của giảng viên, qua đó có được cái nhìn toàn
diện hơn về chất lượng dạy học và đào tạo của cơ sở mình.
* Đối với giảng viên: Hoạt động đánh giá này có thể được xem là một hình thức
108
Các lí thuyết đánh giá hoạt động học và hướng vận dụng đánh giá hoạt động học của sinh viên...
của đánh giá quá trình, qua đó, giúp giảng viên biết được mức độ sinh viên lĩnh hội kiến
thức chiếm tỉ lệ bao nhiêu so với mục tiêu mình đặt ra trong giảng dạy; tạo điều kiện cho
người dạy nắm vững hơn tình hình học tập của sinh viên: khi giáo viên biết sinh viên đang
tiến triển trong quá trình học như thế nào, và gặp khó khăn ở chỗ nào, giáo viên có thể
sử dụng những thông tin này để điều chỉnh việc giảng dạy cần thiết, chẳng hạn như dạy
lại hay thử các phương pháp khác, hay cung cấp cho sinh viên thêm nhiều cơ hội hơn nữa
để thực hành; cung cấp thông tin phản hồi có tác dụng giúp cho giảng viên giảng dạy tốt
hơn.; giúp cho bản thân người giảng viên trong công tác quản lí và giảng dạy tốt hơn , theo
đó, người giảng viên có thể rút kinh nghiệm trong suốt cả quá trình dạy và đánh giá, từ đó
điều chỉnh lại cách dạy của mình để hoàn thiện hơn, giúp sinh viên dễ dàng đạt được các
mục tiêu từ bài học.
* Đối với sinh viên sư phạm, việc đánh giá hoạt động học trên lớp có vai trò quan
trọng trong việc xác định mức độ tham gia vào quá trình dạy học trên lớp của mình, và
cũng là động lực thúc đẩy sinh viên học tập tích cực hơn. Ngoài ra, những tiêu chí đánh
giá hoạt động học này cũng có thể là tài liệu nghiên cứu và học tập để sinh viên sư phạm
có thể sử dụng trong việc thực tập và làm việc trong hoạt động giảng dạy tương lai của
mình.
2.3. Một số lí thuyết đánh giá hoạt động học
* Bốn mức độ đánh giá hoạt động học của Donald L Kirtpatrick
Lí thuyết về Bốn mức độ đánh giá hoạt động học [4] được biết đến lần đầu tiên
trong một bài báo của Donald L Kirtpatrick trên Tạp chí Hiệp hội đào tạo của Hoa Kỳ vào
năm 1959. Tác giả là giáo sư danh dự của Đại học Wisconsin và nguyên là chủ tịch của
Hiệp hội Đào tạo và Phát triển (ASTD). Lí thuyết của ông sau này đã trở thành mô hình
được sử dụng rộng rãi và phổ biến để đánh giá trong lĩnh vực đào tạo và học tập. Mô hình
bốn mức độ của Kirkpatrick hiện nay được xem là chuẩn đánh giá cơ bản trong hoạt động
nhân sự và đào tạo trên khắp thế giới.
Trong lí thuyết này, Donald L Kirtpatrick đã phân chia quá trình đánh giá theo 4
cấp độ (bậc), bao gồm:
Cấp độ 1 - Reactions: Đánh giá phản hồi của người học về cảm nhận của họ đối với
quá trình dạy học;
Cấp độ 2 - Learning: Đánh giá nhận thức của người học trong phạm vi kiến thức họ
thu nhận được sau quá trình dạy học;
Cấp độ 3 - Behaviour: Đánh giá hành vi của người học trong phạm vi ứng dụng
kiến thức và kĩ năng đã thu nhận trong quá trình dạy học;
Cấp độ 4 - Results: Đánh giá kết quả mức độ ảnh hưởng của quá trình dạy học lên
hoạt động thực tế của người học.
109
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Hình 1. Các mức độ đánh giá hoạt động học của Donald L Kirtpatrick
Theo mô hình này, quá trình đánh giá luôn được tiến hành theo thứ tự trong đó
thông tin của cấp độ trước sẽ là cơ sở để tiến hành việc đánh giá ở cấp độ tiếp theo.
* Phân loại hoạt động học tập của Benjamin Bloom
Phân loại hoạt động học tập của Benjamin Bloom hay còn được biết đến với tên gọi
là Thang đo Bloom, do nhà Tâm lí Giáo dục Benjamin Bloom đề xuất vào năm 1956 với
việc phân loại các mục tiêu giáo dục theo ba lĩnh vực bao gồm: lĩnh vực tri thức (cognitive
domain), lĩnh vực cảm xúc (affective domain) và lĩnh vực tâm vận động (psychomotor
domain). Cùng với mô hình Bốn giai đoạn của Kirkpatrick đã trình bày ở trên, thang đo
Bloom, trong đó đặc biệt là về lĩnh vực tri thức hiện được phổ biến khắp thế giới, từ lúc ra
đời cho đến nay vẫn được xem là mô hình tham chiếu và công cụ cơ bản, hiệu quả trong
hoạt động đánh giá giáo dục và đào tạo.
Theo đó, Bloom đã phân chia lĩnh vực tri thức, hay có thể hiểu là hoạt động học
thành 6 mức độ được sắp xếp theo cấp độ tăng dần, bao gồm [3]:
Cấp độ 1 - Biết (Knowledge): Đánh giá khả năng nhớ và nhận biết được thông tin
của người học sau quá trình dạy học;
Cấp độ 2 - Hiểu (Comprehension): Đánh giá khả năng trình bày lại hoặc tóm tắt,
phiên dịch lại kiến thức đã học;
Cấp độ 3 - Vận dụng (Application): Đánh giá khả năng người học chuyển hóa được
những tri thức lí thuyết, trừu tượng vào các tình huống thực tế;
Cấp độ 4 - Phân tích (Analysis): Đánh giá khả năng người học xác định được các
thành phần, cấu trúc, logic, ngữ nghĩa... của kiến thức đã học;
Cấp độ 5 - Tổng hợp (Synthesis): Đánh giá khả năng người học thu nhặt các thành
phần rời rạc, vốn không bộc lộ rõ các mối liên kết thành một chỉnh thể;
Cấp độ 6 - Đánh giá (Evaluation): Đánh giá khả năng người học đưa ra quyết định
và bảo vệ quan điểm, giá trị của mình đối với kiến thức đã học.
110
Các lí thuyết đánh giá hoạt động học và hướng vận dụng đánh giá hoạt động học của sinh viên...
Hình 2. Thang đo các cấp độ nhận thức của Bloom
Đối với hoạt động học tập của sinh viên, việc họ tiếp cận các cấp độ nhận thức trong
quá trình dạy học sẽ tác động trực tiếp đến phong cách học tập, và từ đó, ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động và kết quả học tập của họ. Theo đó, nếu sinh viên chỉ quan tâm đến
việc thu nhận kiến thức ở cấp độ Biết và Hiểu, họ đang thực hiện hoạt động nhận thức
một cách hời hợt, khó thành công trong phát triển năng lực bản thân; và ngược lại, nếu
tiếp cận các cấp độ cao hơn, những người này sẽ có phong cách học tập sâu.
* Bảy nguyên tắc thực hành hiệu quả của Arthur W. Chickering & Zelda F.
Gamson
Bảy nguyên tắc thực hành hiệu quả trong giáo dục đại học được viết bởi Arthur W.
Chickering và Zelda Gamson, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1987, với mục đích hướng
đến việc xác định thực trạng, chính sách và các điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục đại học cũng như thiết lập các nguyên tắc tiếp cận nghiên cứu hỗ trợ cho việc cải thiện
chất lượng học tập của sinh viên đại học [2]. Những nguyên tắc này sau đó được Hiệp hội
Giáo dục đại học và sau đại học của Mỹ (AAHE) và Hiệp hội các trường Đại học Hoa Kỳ
(ACE) hỗ trợ để nghiên cứu vận dụng chúng như những công cụ để tìm hiểu thực trạng
hoạt động dạy và học ở các trường cao đẳng và đại học trên toàn quốc.
Bảy nguyên tắc đó bao gồm:
Nguyên tắc 1: Khuyến khích tương tác giữa giảng viên và giáo viên
Việc tiếp xúc thường xuyên giữa giảng viên và sinh viên ở trong cũng như ở ngoài
lớp học là yếu tố quan trọng nhất trong việc động viên và thu hút sinh viên vào các hoạt
động học tập. Một khi giảng viên dành sự quan tâm của mình vào việc trợ giúp sinh viên,
sẽ giúp họ vượt qua được những khó khăn để bước tiếp. Việc quen biết các giảng viên có
thể giúp sinh viên gia tăng sự gắn bó với hoạt động học tập cũng như khuyến khích họ suy
nghĩ về hệ thống giá trị của bản thân và kế hoạch trong tương lai của họ.
111
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Nguyên tắc 2: Khuyến khích hợp tác học tập giữa sinh viên với nhau
Việc học được cải thiện hơn khi làm việc nhóm mà không chỉ là một cuộc đua cá
nhân. Học tốt, cũng như làm việc tốt, là hoạt động mang tính tính xã hội và hợp tác, không
phải là cạnh tranh và cô lập. Việc chia sẻ ý tưởng và phản hồi ý tưởng của người khác có
thể nâng cao khả năng tư duy và hiểu biết sâu sắc.
Nguyên tắc 3: Khuyến khích sinh viên học tập tích cực
Học tập không phải là một môn thể thao dự khán. Sinh viên không học được nhiều
nếu chỉ ngồi nghe giảng, ghi nhớ các bài tập cho trước, rồi trả lời chúng. Họ phải bàn luận
về cái họ đang học, viết, liên hệ tới các kinh nghiệm đã có và áp dụng trong đời sống thực
của họ. Họ phải biến cái họ học thành cái của chính mình.
Nguyên tắc 4: Cung cấp cho sinh viên phản hồi/hồi đáp một cách kịp thời
Việc nắm được bạn biết cái gì và không biết cái gì sẽ giúp bạn tập trung trong học
tập. Sinh viên cần các phản hồi thích hợp về hiệu quả của quá trình dạy học. Để bắt đầu,
sinh viên cần giúp đỡ trong việc đánh giá các kiến thức và năng lực đầu ra của khóa học.
Trong lớp, sinh viên cần có cơ hội thường xuyên để thực hiện và nhận được các gợi ý để
tiến bộ hơn. Trong suốt thời kì học tập, và khi kết thúc khóa học, sinh viên cần cơ hội để
suy tưởng về những thứ họ học được, cái cần phải biết thêm và cách thức đánh giá chúng.
Nguyên tắc 5: Coi trọng yếu tố thời gian trong hoạt động học tập
Học tập bằng thời gian cộng với năng lượng. Không có sự thay thế nào cho thời
gian dành cho công việc. Việc học cách sử dụng thời gian là một kĩ năng sống còn đối với
sinh viên cũng như các công việc chuyên môn khác. Sinh viên cần giúp đỡ để quản lí thời
gian hiệu quả. Phân bố khối lượng công việc phù hợp đồng nghĩa với việc học tập hiệu
quả của sinh viên cũng như việc dạy học hiệu quả đối với giáo viên. Cách thức nhà trường
đặt kì vọng về thời gian đối với sinh viên, giáo viên, giáo vụ, và các chuyên viên khác có
thể thiết lập nền tảng cho hiệu quả cao trong công việc của tất cả mọi người.
Nguyên tắc 6: Đặt kì vọng cao đối với sinh viên
Kì vọng nhiều hơn và bạn sẽ gặt hái nhiều hơn. Kì vọng cao rất quan trọng với tất cả
mọi người - cả người ít chuẩn bị, người không kì vọng gì vào chính mình và cả cho người
thông minh cũng như có động lực cao trong học tập. Việc kì vọng sinh viên học tốt sẽ trở
thành kim chỉ nam cho nỗ lực tự hoàn thiện khi giáo viên và trường học kì vọng vào chính
người học và việc thực hiện các nỗ lực khác.
Nguyên tắc 7: Tôn trọng sự khác biệt về năng khiếu và phong cách học của sinh viên
Có nhiều cách học khác nhau. Mọi người có năng khiếu khác nhau và phong cách
học khác nhau. Sinh viên xuất sắc trong phòng seminar có thể rất vụng về trong phòng lab
hoặc studio. Sinh viên có nhiều kinh nghiệm thực tiễn có thể không giỏi trong lí thuyết.
Sinh viên cần có cơ hội để thể hiện năng khiếu của họ theo cách riêng của họ. Khi đó họ
có thể được thúc đẩy việc học theo những cách thức mới mẻ mà không gặp khó khăn gì.
112
Các lí thuyết đánh giá hoạt động học và hướng vận dụng đánh giá hoạt động học của sinh viên...
2.4. Vận dụng các lí thuyết đánh giá hoạt động học để xây dựng tiêu chí
đánh giá hoạt động học tập trên lớp của sinh viên sư phạm
Trong điều kiện dạy học tín chỉ hiện nay, tác giả bài báo giả định giờ học lí thuyết
của sinh viên sư phạm được thực hiện trong điều kiện giảng viên đang thực hiện phương
pháp giảng dạy phát huy tính tích cực học tập của sinh viên, tiếp cận với lí thuyết tương
tác sư phạm. Trong đó, giảng viên sử dụng linh hoạt và hợp lí phương pháp giảng dạy với
những điều kiện tương đối phù hợp và chính xác về nội dung tri thức, tài liệu và phương
tiện dạy học. Với xuất phát điểm này, việc đánh giá hoạt động học tập trên lớp của sinh
viên mới có thể được thực hiện một cách phù hợp và chính xác.
Theo đó, vận dụng các lí thuyết đánh giá hoạt động học nói trên bao gồm Lí thuyết
về bốn mức độ đánh giá hoạt động học của Donald L. Kirtpatrick, Phân loại hoạt động học
tập của Benjamin Bloom và Bảy nguyên tắc thực hành hiệu quả của Arthur W. Chickering
& Zelda F. Gamson, tác giả đã xác định những tiêu chí đánh giá hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên sư phạm trên 5 khía cạnh, bao gồm:
- Mức độ thực hiện hoạt động nhận thức:
+ Đánh giá nội dung bài học;
+ Phân tích và tổng hợp nội dung bài học;
+ Vận dụng nội dung bài học đề làm bài tập hoặc lí giải các vấn đề trong thực tế;
+ Hiểu về nội dung bài học.
- Tham gia hoạt động học tập tích cực và hợp tác:
+ Tích cực tìm kiếm, mở rộng phạm vi nhận thức về bài học;
+ Hợp tác với bạn bè để tìm hiểu về bài học.
- Tương tác giữa sinh viên và giảng viên:
+ Tích cực tương tác với giảng viên để tìm hiểu về bài học;
+ Giảng viên sử dụng phương pháp giảng dạy hiệu quả để giúp sinh viên học tập
tích cực;
- Môi trường lớp học:
+ Thái độ, hứng thú của giảng viên và sinh viên đối với