Tuyên bố giá trị của cách tiếp cận hợp nhất dữ liệu
Tính trong suốt của tính không đồng nhất bên dưới
Người dùng nhìn thấy chỉ một giao diện thống nhất. Ứng dụng khách hàng của
mẫu không cần biết về:
Dữ liệu nguồn ban đầu được lưu trữ ở đâu (Tính trong suốt về vị trí).
Các cơ sở dữ liệu nguồn hỗ trợ giao diện lập trình hoặc ngôn ngữ nào, ví dụ,
sử dụng XQuery hay SQL hoặc nguồn đó hỗ trợ ngôn ngữ SQL nào (Tính
trong suốt về thực hiện).
Lưu trữ vật lý dữ liệu như thế nào (Tính độc lập của dữ liệu vật lý, sự phân
mảnh và tính trong suốt về bản sao).
Sử dụng giao thức nối mạng nào (Tính trong suốt về mạng).
20 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các mẫu dịch vụ thông tin Phần 2: Mẫu hợp nhất dữ liệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các mẫu dịch vụ thông tin
Phần 2: Mẫu hợp nhất dữ liệu
Tuyên bố giá trị của cách tiếp cận hợp nhất dữ liệu
Tính trong suốt của tính không đồng nhất bên dưới
Người dùng nhìn thấy chỉ một giao diện thống nhất. Ứng dụng khách hàng của
mẫu không cần biết về:
Dữ liệu nguồn ban đầu được lưu trữ ở đâu (Tính trong suốt về vị trí).
Các cơ sở dữ liệu nguồn hỗ trợ giao diện lập trình hoặc ngôn ngữ nào, ví dụ,
sử dụng XQuery hay SQL hoặc nguồn đó hỗ trợ ngôn ngữ SQL nào (Tính
trong suốt về thực hiện).
Lưu trữ vật lý dữ liệu như thế nào (Tính độc lập của dữ liệu vật lý, sự phân
mảnh và tính trong suốt về bản sao).
Sử dụng giao thức nối mạng nào (Tính trong suốt về mạng).
Hiệu năng và khả năng mở rộng quy mô
Mẫu hợp nhất dữ liệu tách nhiệm vụ tích hợp dữ liệu khỏi nhiệm vụ truy cập dữ
liệu. Việc truy cập cơ sở dữ liệu đích không đòi hỏi phải thi hành một quá trình
hợp nhất dữ liệu. Thông thường, theo lịch biểu quá trình hợp nhất sẽ xảy ra hàng
ngày, hàng tuần và v.v -- độc lập với việc truy cập của người dùng dữ liệu đích. Vì
dữ liệu cần thiết đã được thu gom tại một vị trí, nên có thể bảo đảm mức hiệu năng
và khả năng mở rộng quy mô cao nhất cho những người dùng dữ liệu.
Một phiên bản sự thật duy nhất
Cách tiếp cận này áp dụng các khả năng mạnh mẽ để giải quyết các xung đột khi
tích hợp dữ liệu từ các nguồn không đồng nhất. Sau đó các dịch vụ có thể rút ra từ
kho hợp nhất này và thỏa mãn các yêu cầu chất lượng dữ liệu cao.
Khả năng tái sử dụng
Sau khi áp dụng mẫu hợp nhất dữ liệu cho một kịch bản tích hợp cụ thể, có thể
cung cấp kết quả truy cập hợp nhất như là một dịch vụ cho nhiều người dùng dịch
vụ. Ví dụ, một kịch bản tích hợp có thể yêu cầu tích hợp thông tin tài chính từ rất
nhiều vùng. Khi áp dụng mẫu dữ liệu hợp nhất, dữ liệu khác nhau được hợp nhất
vào một nơi duy nhất, rồi được trưng ra thông qua một bảng tài chính. Sau đó có
thể sử dụng chính dữ liệu hợp nhất ấy thông qua các dịch vụ thông tin cho người
dùng khác, chẳng hạn như các quy trình tự động dùng cho các đơn yêu cầu bồi
thường tiêu chuẩn hoặc các ứng dụng web hướng khách hàng.
Việc quản trị được cải thiện
Quản trị là một nền tảng quan trọng cho vòng đời SOA. Các mẫu đề cao quá trình
quản trị bằng cách tăng cường các hướng dẫn thực hành tốt nhất với các kết quả dự
báo. Việc sử dụng lại các mẫu linh hoạt đã được kiểm chứng trong việc phát triển
và tạo ra các hệ thống có thể vừa bảo đảm tính thống nhất và chất lượng lại vừa
làm giảm chi phí bảo trì nhờ có một nguồn duy nhất để cập nhật những thay đổi.
Về đầu trang
Bối cảnh
Mẫu này đã được triển khai trong nhiều kịch bản theo một bối cảnh truyền thống
và không-SOA trong một khoảng thời gian dài. Dựa vào việc gia tăng mối quan
tâm về SOA, chúng tôi thấy có nhiều cơ hội mới để áp dụng mẫu này trong bối
cảnh SOA.
Bối cảnh truyền thống, không-SOA
Các kịch bản tiêu biểu nhất đã áp dụng mẫu hợp nhất dữ liệu theo truyền thống là:
Di trú ứng dụng: Di trú ứng dụng diễn ra khi một hệ thống di sản hiện có --
ví dụ, một hệ thống quản lý quan hệ khách hàng (CRM) do doanh nghiệp
phát triển -- cần được thay thế bằng một ứng dụng mới vì các lý do nghiệp
vụ hay kỹ thuật. Hợp nhất dữ liệu hỗ trợ quá trình di trú ứng dụng để di
chuyển dữ liệu từ môi trường di sản sang cơ sở dữ liệu của ứng dụng tương
lai và áp dụng bất kỳ việc tái cơ cấu cần thiết nào với mô hình và chính bản
thân dữ liệu.
Hợp nhất ứng dụng: Một trong những nhiệm vụ về hợp nhất các ứng dụng --
ví dụ, việc giảm số lượng các hệ thống hoạch định tài nguyên doanh nghiệp
(ERP) xuống chỉ còn một hoặc rất ít hệ thống -- là hợp nhất các cơ sở dữ liệu
bên dưới. Điều đó có nghĩa là dữ liệu từ nhiều hệ thống di sản hiện có phải
được sáp nhập vào (các) cơ sở dữ liệu hợp nhất.
Hỗ trợ ra quyết định: Nhiều kịch bản hỗ trợ ra quyết định, ví dụ như những
kịch bản xử lý phân tích và báo cáo tài chính, đòi hỏi phải truy cập vào dữ
liệu phân tán trên nhiều nguồn. Chất lượng của các quyết định tùy thuộc vào
chất lượng và tính toàn diện của thông tin bên dưới. Do đó, dữ liệu phân tán
cần được tích hợp và tạo sẵn cho rất nhiều phân tích. Trong nhiều trường
hợp, cần thực hiện các ảnh chụp nhanh (bản sao) lịch sử để đánh giá xu
hướng qua một khoảng thời gian. Hợp nhất dữ liệu giúp cung cấp cho các
công ty chỉ một phiên bản sự thật duy nhất từ nhiều nguồn. Một kho dữ liệu
để hỗ trợ ra quyết định là một ví dụ điển hình về sử dụng một mẫu hợp nhất
dữ liệu.
Quản lý dữ liệu chủ: Quản lý dữ liệu chủ nhằm mục đích tách thông tin chủ,
theo định nghĩa là các sự thật mô tả các thực thể nghiệp vụ cốt lõi, chẳng hạn
như khách hàng và sản phẩm, ra khỏi các ứng dụng riêng lẻ. Việc tạo ra dữ
liệu chủ này hoặc phiên bản sự thật duy nhất, được thực hiện thông qua một
tập hợp các quy tắc, các công nghệ và các giải pháp thường dùng để tạo ra
và duy trì dữ liệu nghiệp vụ nhất quán, đầy đủ, theo ngữ cảnh và chính xác
cho tất cả các bên liên quan đến thông tin đó. Động lực phía sau việc bắt đầu
quản lý dữ liệu chủ là một tình huống trong đó dữ liệu chủ lưu trú trong
nhiều hệ thống cô lập, được lưu trữ và duy trì theo các định dạng khác nhau,
dẫn đến không nhất quán và không đầy đủ ở một mức cao. Để tạo ra tập hợp
thông tin chính xác và nhất quán, có thể được quản lý trong một hệ thống
quản lý dữ liệu chủ trung tâm, cần thu gom dữ liệu, chuyển đổi chúng thành
mô hình dữ liệu chủ và hợp nhất vào kho chứa dữ liệu chủ.
Tất cả các kịch bản này đều chia sẻ một chủ đề chung:
Phân phối thông tin nguồn trên nhiều hệ thống tự trị và không đồng nhất.
Thông tin nguồn có thể tồn tại theo các định dạng không nhất quán hoặc
không đầy đủ.
Áp dụng các quy tắc không nhất quán cho nguồn dữ liệu.
Tính linh hoạt để thay đổi các nguồn thông tin và các định dạng khá hạn chế.
Dữ liệu nguồn phải được hợp nhất thành một dữ liệu đích tồn tại lâu bền để giải
quyết những thách thức trên bằng cách tích hợp dữ liệu thành một định dạng chung
và thống nhất. Chức năng cốt lõi của mẫu hợp nhất dữ liệu giải quyết yêu cầu này
thông qua ba hoạt động thành phần là thu gom (trích ra dữ liệu từ các nguồn), xử lý
(chuyển đổi dữ liệu nguồn cho phù hợp với mô hình định nghĩa dữ liệu đích) và áp
dụng (nạp dữ liệu đã hợp nhất và hòa hợp vào hệ thống hoặc kho lưu trữ dữ liệu
đích). Điều này được minh họa trong Hình 1.
Hình 1. Mẫu hợp nhất dữ liệu truyền thống
Bối cảnh SOA
Bối cảnh SOA đưa ra nhiều thách thức tương tự với bối cảnh truyền thống, do đó,
chúng tôi tin rằng điều quan trọng là sử dụng lại các cách tiếp cận hiện tại đã được
kiểm chứng và tăng cường chúng để áp dụng chúng trong SOA.
Trường hợp sử dụng SOA đầu tiên:
Trường hợp sử dụng SOA đầu tiên là một phần kịch bản mở rộng đã được mô tả
trong ngữ cảnh truyền thống ở trên. Trong trường hợp sử dụng này, quá trình hợp
nhất với dữ liệu đích bây giờ được trưng ra như là một dịch vụ. Ví dụ, một giải
pháp quản lý dữ liệu chủ có thể được tập trung xoay quanh thông tin các bộ phận
xe hoặc thông tin của cả chiếc xe tại một xưởng sản xuất ô tô. Do tầm quan trọng
của thông tin bộ phận xe/cả chiếc xe, nên nhiều người dùng sẽ cần truy cập dữ liệu
từ một hệ thống quản lý dữ liệu chủ hợp nhất. Một dịch vụ như getVehicleData sẽ
tạo một cá thể của mẫu hợp nhất để thực hiện một dịch vụ có thể tái sử dụng. Sau
đó, các nhân viên của doanh nghiệp hay các nhà phân phối các bộ phận xe bên
ngoài doanh nghiệp chẳng hạn, có thể truy cập dịch vụ này trong toàn doanh
nghiệp hay bên ngoài doanh nghiệp.
Việc trưng ra thông tin này thông qua các dịch vụ làm tăng thêm khả năng tái sử
dụng cách thực hiện này và do đó có thể làm giảm chi phí vận hành và những điểm
không nhất quán liên quan đến nguồn gốc, chuyển đổi và biến đổi theo các định
dạng nguồn, điều này đã được giới thiệu trước đây, khi nhiều người dùng (những
người thực hiện các hệ thống dữ liệu đích) cần thực hiện nhiệm vụ tích hợp này
một cách riêng lẻ và dư thừa. Theo cách tiếp cận SOA, ESB (Enterprise Service
Bus) đứng trung gian xử lý các thông điệp (yêu cầu và đáp ứng của dịch vụ) giữa
nhiều người tiêu dùng và nhà cung cấp dịch vụ thông tin, như minh họa trong Hình
2, do đó cho phép thực hiện dịch vụ một cách nhất quán và đúng chuẩn.
Hình 2. SOA truy cập vào dữ liệu hợp nhất
Để hỗ trợ thực hiện các dịch vụ tích hợp thông tin trong một SOA đòi hỏi có chức
năng bổ sung bao gọn việc truy cập thông tin trong một giao diện hướng dịch vụ.
Điều này được thực hiện thông qua thành phần information service enablement (hỗ
trợ dịch vụ thông tin). Mục đích của thành phần này là trưng ra dữ liệu hợp nhất
trong một giao diện hướng dịch vụ. Ví dụ, có thể lưu trữ dữ liệu xe nguyên chiếc
đã hợp nhất trong một cơ sở dữ liệu quan hệ. Qua thành phần hỗ trợ dịch vụ thông
tin, có thể trưng ra dữ liệu xe nguyên chiếc theo mô hình quan hệ này như là một
dịch vụ -- được định nghĩa bởi Service Component Architecture (SCA - Kiến trúc
thành phần dịch vụ) hay Web Services Definition Language (WSDL – Ngôn ngữ
định nghĩa dịch vụ Web) chẳng hạn. Rồi sau đó có thể chia sẻ dịch vụ để thực hiện
truy cập dữ liệu xe nguyên chiếc trong và ngoài doanh nghiệp.
Trường hợp sử dụng SOA thứ hai:
Trường hợp sử dụng SOA thứ hai minh họa một tình huống trong đó một người
dùng gọi ra quá trình hợp nhất. Theo truyền thống, quá trình hợp nhất chạy theo
một lịch biểu thời gian tương đối cố định, thông thường nhất là trong các cửa sổ
thời gian bảo trì, trên cơ sở hàng tuần hoặc hàng ngày. Việc hợp nhất được tách
khỏi quy trình nghiệp vụ thường chạy theo một lịch biểu thời gian ít cứng nhắc
hơn. Trong bối cảnh SOA, một bước nào đó trong một quy trình nghiệp vụ hoặc
một ứng dụng có thể gọi trực tiếp quá trình hợp nhất. Hai ví dụ về trường hợp sử
dụng này là:
"Refresh my DataMart Now" có thể là một button có sẵn dành cho nhà phân
tích kinh doanh, người chỉ muốn cập nhật thông tin "khi cần đến". Việc làm
mới tự động sẽ gây ra nhiều vấn đề không lường trước bởi vì với dữ liệu tài
chính thì cần phải thực hiện việc phân tích đúng thời điểm. Các bản cập nhật
sẽ chỉ là "thời gian thực" như được ấn định bởi các chuyên gia chuyên ngành
-- không nhất thiết phải đợi đến lúc khả thi về mặt kỹ thuật. Việc gọi quá
trình hợp nhất dữ liệu thông qua một button như vậy cung cấp một giải pháp
cho yêu cầu này.
Một công ty dược phẩm lớn sử dụng mô hình hợp nhất dữ liệu trong một bối
cảnh SOA để hỗ trợ việc thu thập và xem xét các số liệu thống kê kiểm
nghiệm của phòng thí nghiệm từ xa. Việc tiêu chuẩn hóa thu thập dữ liệu
trong phòng thí nghiệm sẽ giúp rút ngắn vòng đời vốn đã dài và tốn kém của
các sản phẩm dược phẩm. Trong ứng dụng về mô hình này, các phòng thí
nghiệm riêng lẻ gọi một dịch vụ hợp nhất mỗi khi họ đã chèn chi tiết nghiên
cứu vào một hệ thống giao dịch cô lập và đặt các dữ liệu đồ họa (các bản
trình chiếu và các tệp JPG) vào một thư mục trung tâm để phê duyệt. Dịch
vụ hợp nhất thu thập các số liệu thống kê từ một phòng thí nghiệm cụ thể và
lưu trữ chúng trong hệ thống theo dõi tập trung của công ty. Các số liệu
thống kê được tạo ra bằng nhiều công cụ khác nhau, mỗi công cụ có một kho
lưu trữ dữ liệu duy nhất. Trước khi triển khai mô hình, nhiều hệ thống thủ
công trên giấy và điện tử do công ty xây dựng, đã thu thập chẳng mấy hiệu
quả các số liệu thống kê và các tư liệu hỗ trợ.
Hình 3 minh họa làm thế nào mà một hoạt động theo quy trình nghiệp vụ (được gọi
là "invoke" như trong hình) gửi một yêu cầu -- có thể thông qua một ESB nếu
muốn -- tới thành phần thực hiện hỗ trợ dịch vụ thông tin. Thành phần này nhận
yêu cầu dịch vụ và gọi ra (invoke) quá trình hợp nhất. Sau đó, thu gom dữ liệu từ
các nguồn, rồi xử lý chúng và áp dụng kết quả cho hệ thống đích.
Hình 3. Các quá trình hợp nhất dữ liệu có thể truy cập và có thể tái sử dụng của
SOA
Trường hợp sử dụng SOA thứ ba:
Trường hợp sử dụng SOA thứ ba là một sự kết hợp của hai mẫu: hợp nhất dữ liệu
và xuất bản dữ kiện hoặc thay đổi việc bắt giữ dữ liệu, như trong Hình 4.
Hình 4. Hợp nhất dữ liệu kết hợp với việc xuất bản dữ kiện
Nhiều công ty gặp thách thức khi muốn quản lý hàng tồn kho có hiệu quả. Một
phần của vấn đề là thông tin liên quan đến hàng tồn kho nằm trong nhiều cơ sở dữ
liệu không đồng nhất. Tuy nhiên, để tối ưu hóa hàng tồn kho, thông tin này cần
truy cập theo cách tích hợp và nhất quán. Ví dụ, cần giải quyết vấn đề về cùng một
bộ phận phụ tùng lại có nhiều mã số khác nhau khi hợp nhất thông tin để truy cập
và phân tích hàng tồn kho. Một số thông tin liên quan đến hàng tồn kho sẽ liên tục
thay đổi -- ví dụ, với các sản phẩm có nhu cầu cao -- trong khi dữ liệu khác lại
không thay đổi. Tình trạng này đòi hỏi phải hợp nhất thông tin phân tán, không
đồng nhất và liên tục thay đổi vào một kho lưu trữ duy nhất.
Việc xuất bản dữ kiện và "việc cấp từ từ" dữ liệu đến một kho lưu trữ dữ liệu đích
là một bối cảnh quan trọng khác để áp dụng mẫu hợp nhất dữ liệu. Có một số động
lực chính để sử dụng phương pháp này là:
Các hệ thống dữ liệu đích được đồng bộ hóa với các nguồn theo cách gần
thời gian thực. Điều này có thể quan trọng đối với các ứng dụng hỗ trợ ra
quyết định hoặc các hệ thống vận hành hợp tác. Những người dùng hệ thống
dữ liệu đích thấy kết quả ngay lập tức.
Mẫu này ngăn ngừa sự cần thiết phải có các quá trình quét lâu dài các hệ
thống nguồn trong cửa sổ thời gian xử lý theo từng gói. Các quá trình quét
như vậy có thể làm giảm hiệu năng của nguồn, ảnh hưởng đến các ứng dụng
khác.
Chỉ có thông tin "thay đổi" được gửi qua mạng và trải qua các quá trình
chuyển đổi toàn diện, nhờ đó làm giảm gánh nặng cho mạng và các hệ thống
thực hiện thao tác.
Về đầu trang
Đặt vấn đề
Những người dùng SOA yêu cầu một dịch vụ cần phải truy cập thông tin từ nhiều
nguồn không đồng nhất. Các nguồn đã được thiết kế, phát triển và tiến hóa độc lập,
do đó chúng có các cách biểu diễn khác nhau đáng kể với cùng một kiểu dữ liệu.
Tính không đồng nhất có thể xảy ra ở một mức cá thể -- chẳng hạn như thiếu một
khóa chung (do các định dạng khác nhau) hoặc ở một mức mô hình -- ví dụ, mô
hình hóa cùng một thực thể trong thế giới thực thành một số các thực thể cơ sở dữ
liệu khác nhau. Những người dùng SOA không thể thấy được tính không đồng
nhất bên dưới này nhưng phải có khả năng truy cập thông tin tích hợp một cách
trong suốt.
Nhiều tình huống có áp dụng mẫu này đòi hỏi thông tin tích hợp phải có một mức
sẵn sàng cao. Thông thường, các hệ thống nguồn bị hạn chế bởi việc sử dụng tài
nguyên và tính linh hoạt trong các thay đổi ứng dụng bị hạn chế. Đồng thời, cần
thực hiện các hoạt động xử lý dữ liệu khá phức tạp để cung cấp các dịch vụ được
yêu cầu.
Về đầu trang
Các mục tiêu của giải pháp
Các mục tiêu là:
Tích hợp thông tin từ các nguồn có thể có tính không đồng nhất ở một mức
cao và hỗ trợ truy cập chỉ-đọc tới thông tin tích hợp này với tính sẵn dùng,
khả năng mở rộng quy mô và hiệu năng của dữ liệu ở một mức cao.
Cung cấp các khả năng chuyển đổi rộng lớn để giải quyết các xung đột giữa
các nguồn và để cơ cấu lại dữ liệu nguồn thành một chế độ dữ liệu đích
mong muốn.
Tách truy cập vào dữ liệu đích tích hợp ra khỏi quá trình tích hợp và chuyển
đổi dữ liệu từ các nguồn thành dữ liệu đích để cho phép khả năng mở rộng
quy mô và hiệu năng.
Cho phép các kịch bản đòi hỏi phải cập nhật dữ liệu hợp nhất, chẳng hạn như các
hệ thống quản lý dữ liệu chủ vận hành, để kết hợp mẫu này với các cách tiếp cận
khác thực hiện lan truyền các thay đổi trong hệ thống dữ liệu đích trở lại các nguồn
và do đó duy trì đồng bộ các hệ thống đó.
Về đầu trang
Mô tả giải pháp
Cách tiếp cận hợp nhất dữ liệu có ba giai đoạn chính. Trong giai đoạn đầu tiên máy
chủ hợp nhất -- thành phần thực hiện mẫu hợp nhất dữ liệu -- thu gom (hoặc "trích
ra") dữ liệu từ các nguồn. Tiếp theo, tích hợp và chuyển đổi dữ liệu nguồn cho phù
hợp với mô hình dữ liệu đích, có thể trong nhiều hoạt động. Cuối cùng, máy chủ
hợp nhất áp dụng dữ liệu đã chuyển đổi cho kho lưu trữ dữ liệu đích.
Quá trình này có thể chạy (lặp lại) theo một lịch biểu thời gian hoặc có thể gọi nó
(nhiều lần) như là một dịch vụ từ một quy trình nghiệp vụ hay bất kỳ người dùng
dịch vụ nào khác. Sau khi nạp vào hoặc làm mới dữ liệu tích hợp trong mô hình dữ
liệu đích, có thể trưng ra thông tin hợp nhất như là một dịch vụ cho những người
dùng.
Các đặc điểm thời gian thiết kế
Nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian thiết kế là chỉ rõ luồng dữ liệu từ các nguồn tới
đích -- đó là, làm thế nào để tái cấu trúc và sáp nhập các mô hình nguồn vào mô
hình đích. Giả định rằng khi áp dụng mẫu hợp nhất dữ liệu, quản trị viên hoặc nhà
phát triển luồng dữ liệu đã có một sự hiểu biết chi tiết về các giao diện truy cập có
sẵn tới các nguồn, ngữ nghĩa và tính đúng đắn của mô hình dữ liệu nguồn và những
ràng buộc về tính toàn vẹn của nó. Cũng giả định rằng mô hình dữ liệu đích đã
được định nghĩa. Nếu các giả định ấy không đúng, cần phải kết hợp mẫu hợp nhất
với các cách tiếp cận khác, chẳng hạn như lược tả dữ liệu và mô hình hóa dữ liệu,
để giải quyết những vấn đề còn để mở này.
Dựa trên những giả định đó, nhà phát triển định nghĩa tập hợp các hoạt động có thể
chuyển đổi dữ liệu nguồn thành dữ liệu đích tương ứng với các mô hình nguồn và
mô hình đích. Các việc thực hiện mẫu này thay đổi trong phạm vi của các hoạt
động chuyển đổi được hỗ trợ và những hoạt động đó có thể mở rộng ra sao. Nhiều
việc thực hiện hướng tới sử dụng một tập hợp các hoạt động tiêu biểu nhất, chẳng
hạn như tra tìm, các phép nối và các bộ lọc. Nhiều việc thực hiện bổ sung tạo ra
các cơ cấu mạnh mẽ để mở rộng tập hợp các hoạt động này cho các nhu cầu riêng
của khách hàng hay đặc trưng cho dự án. Khi sử dụng những khả năng của hoạt
động này trong giai đoạn thiết kế, có thể định nghĩa luồng dữ liệu (có nghĩa là,
chuỗi các hoạt động chuyển đổi và xử lý dữ liệu đó). Rồi triển khai đặc tả luồng dữ
liệu này tới máy chủ hợp nhất và kiểm soát dữ liệu nào được trích ra, được chuyển
đổi thế nào và được áp dụng cho mô hình đích ra sao.
Đặc tả luồng dữ liệu là một kiểu siêu dữ liệu đặc biệt. Việc kết hợp siêu dữ liệu này
với siêu dữ liệu liên quan khác có thể hỗ trợ các ứng dụng khác (nằm ngoài phạm
vi của mẫu này) chẳng hạn như phân tích ảnh hưởng và bảng chú giải thuật ngữ
nghiệp vụ.
Nhiều việc thực hiện mẫu hợp nhất – cụ thể hơn là thực hiện thành phần hỗ trợ
dịch vụ thông tin (xem Hình 2) -- thay đổi theo mức hỗ trợ công cụ và các tùy chọn
cấu hình để giúp quản trị viên hoặc nhà phát triển trong việc tạo ra một giao diện
dịch vụ để chạy quá trình hợp nhất.
Chức năng của thành phần hỗ trợ dịch vụ thông tin cũng có thể giúp ánh xạ một
giao diện dịch vụ tới một truy vấn để truy cập dữ liệu trong cơ sở dữ liệu hợp nhất.
Thời gian chạy (Run time)
Máy chủ hợp nhất thực hiện đặc tả luồng dữ liệu đã định nghĩa trong thời gian thiết
kế. Việc chạy quá trình hợp nhất dữ liệu được bắt đầu dựa trên một lịch biểu thời
gian đã định hoặc thông qua việc chạy dịch vụ. Bước đầu tiên trong quá trình hợp
nhất này là truy cập các hệ thống nguồn để thu gom thông tin có liên quan. Thông
thường, các máy chủ hợp nhất sử dụng một tập hợp các đầu nối đặc trưng của
nguồn, cũng có thể được gọi là các trình bao bọc (wrapper). Mỗi đầu nối được thiết
kế cho một kiểu nguồn cụ thể -- ví dụ như DB2 hoặc Oracle -- để thu gom thông
tin và xử lý các đặc điểm giao diện đặc trưng cho nguồn có hiệu quả nhất. Vì lý do
đó, các đầu nối hỗ trợ các giao diện khác nhau đối với các nguồn và cung cấp một
giao diện chung cho máy chủ hợp nhất cốt lõi.
Sau khi thu gom dữ liệu thông qua các đầu nối, nhiệm vụ chính của máy chủ hợp
nhất là xử lý dữ liệu theo đặc tả luồng dữ liệu. Máy chủ hợp nhất phân giải các
xung đột giữa các luồng dữ liệu nguồn, nối dữ liệu với nhau hoặc chia tách nó ra
thành từ