Trẻ có thể bộc lộ hoàn toàn khả năng của mình và cơ hội
phát triển của trẻ sẽ trở nên rõ ràng nhất khi trẻ hoạt động
một cách chủ động. Sẽ đạt được các mục tiêu giáo dục đề
ra một cách dễ dàng hơn nếu những mục tiêu này dựa trên
các nguyên tắc rõ ràng và gắn liền với các hoạt động hàng
ngày của trẻ.
Bài viết này sẽ đề cập tới các nguyên tắc "Giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm", những nguyên tắc này gắn liền với sự chủ
động trong các hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển của
trẻ. Đồng thời, bài này cũng đề cập tới cách áp dụng những
nguyên tắc này vào thực tế.
13 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3457 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nguyên tắc trong giáo dục mầm non Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các nguyên tắc trong Giáo dục Mầm non Nhật Bản
Trẻ có thể bộc lộ hoàn toàn khả năng của mình và cơ hội
phát triển của trẻ sẽ trở nên rõ ràng nhất khi trẻ hoạt động
một cách chủ động. Sẽ đạt được các mục tiêu giáo dục đề
ra một cách dễ dàng hơn nếu những mục tiêu này dựa trên
các nguyên tắc rõ ràng và gắn liền với các hoạt động hàng
ngày của trẻ.
Bài viết này sẽ đề cập tới các nguyên tắc "Giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm", những nguyên tắc này gắn liền với sự chủ
động trong các hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển của
trẻ. Đồng thời, bài này cũng đề cập tới cách áp dụng những
nguyên tắc này vào thực tế.
* Nguyên tắc: "Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm" phát
triển tính độc lập và tự tin của trẻ
Một trong những mục tiêu giáo dục trong giai đoạn trước
tuổi học là nhằm phát triển tính độc lập và tự tin. Ở đây,
"tính độc lập" đề cập tới khả năng suy nghĩ mà không cần
phải tuân theo bất kỳ chỉ dẫn nào. Vì thế, trẻ độc lập là
những trẻ có chính kiến riêng và sẽ hoàn thành được các
công việc sau khi đã trải qua một quá trình liên tục của
những cố gắng và sai lầm. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa rằng trẻ đơn giản chỉ cư xử một cách ích kỷ mà
không quan tâm tới ai khác nữa. Trẻ độc lập có thể tự đưa
ra những quyết định sau khi đã xem xét đến nhiều tác nhân
có liên quan (như những người khác hoặc hoàn cảnh quanh
mình) nhưng trẻ không bị điều khiển bởi bất cứ "thế lực"
nào. Vì thế, các nhà Giáo dục Mầm non nên làm thế nào để
giúp trẻ phát triển tính độc lập?
Đầu tiên, phải chú trọng đến tính chủ động của trẻ (như: ý
kiến, sự nhiệt tình, những dự định riêng của trẻ). Tuy vậy,
nếu giáo viên để trẻ làm cái chúng thích thì trẻ sẽ không
phát triển được như mong muốn. Nhiệm vụ của các giáo
viên là phải theo dõi xem trẻ có thể đạt được sự phát triển
năng khiếu bản thân (self-realization) hay không. Giáo viên
phải đề cập và gợi ý để giúp trẻ khi trẻ bế tắc và mất tập
trung trong hoạt động chơi của mình. Nói cách khác, những
can thiệp có tính giáo dục được cân nhắc kỹ là việc làm cần
thiết của giáo viên.
* Tôn trọng giai đoạn phát triển của trẻ
Dường như đây là điểm mấu chốt của Giáo dục Mầm non,
là cái khởi đầu và cái làm trọn vẹn cuộc sống của trẻ. Điều
cần thiết là giáo viên nên tạo ra hàng loạt các hoạt động có
thể thực hiện được để trẻ có thể bắt đầu chơi với hoạt động
mà chúng thích nhất, và giáo viên có thể tiếp tục phát triển
tiếp hoạt động đó. Nói cách khác, trẻ tự quyết cái chúng
làm, giáo viên không chỉ giới thiệu "các hoạt động trong
ngày" dựa trên thời khóa biểu chi tiết. Vì vậy, số chương
trình và thời gian biểu của các hoạt động sẽ tương đương
với số trẻ. Giáo viên nên theo sát từng trẻ, chơi cùng với trẻ
và trợ giúp hoặc có những can thiệp có tính giáo dục khi
cần. Giáo viên nên đánh giá trạng thái phát triển của mỗi
trẻ và có những trợ giúp để trẻ có thể tiếp tục phát triển ở
giai đoạn tiếp theo.
* Vùng phát triển gần
Quan điểm của Vugotsky về "Vùng phát triển gần" có thể
trợ giúp cho giáo viên trong việc nhận ra những khác biệt
có tính cá thể trong quá trình phát triển và xác định được
mức độ phát triển của mỗi trẻ cụ thể. Vùng phát triển gần
đề cập tới "mức độ có thể" mà trẻ có thể đạt được dưới sự
hướng dẫn của người lớn. Điều này cho thấy khoảng cách
giữa mức độ phát triển thực (mà trẻ có được) và mức độ
phát triển tiềm năng. Giáo viên nên làm một "chỗ dựa" để
có những hỗ trợ tối thiểu cần cho trẻ phát triển thành công
và tiến lên một mức phát triển mới.Vì vậy, làm thế nào để
giáo viên có thể xác định được vùng phát triển gần của mỗi
trẻ?
Có 3 điểm quan trọng: Những kinh nghiệm của giáo
viên; khả năng bắt chước của trẻ; và lịch sử cuộc sống
của trẻ.
- Những kinh nghiệm của giáo viên: sẽ giúp họ xác định
nên nói như thế nào và giúp trẻ ở mức độ nào. Ví dụ: Giáo
viên có thể nghĩ: "Cậu bé này cũng giống như một cậu bé
trước đây mình đã từng chăm sóc: cũng phải mất một chút
ít thời gian cho cậu ta khởi động, nhưng khi đã bắt nhịp
được thì chắc chắn cậu ta có thể tự hoàn thành công việc
của mình vì cậu ta có khả năng tập trung cao giống với cậu
bé năm ngoái mình giúp đỡ". Giáo viên có thể suy đoán
được vùng phát triển gần của trẻ dựa vào kinh nghiệm như
thế. Tốt nhất nên tránh đưa ra quá nhiều gợi ý hoặc hướng
dẫn cho một trẻ. Chỉ nên đưa một gợi ý nhỏ vào lúc bắt đầu
hoạt động và thay đổi cách nói với trẻ khi chúng có thể đi
tiếp sang những giai đoạn tiếp theo.
- Bắt chước là một mặt khác của vùng phát triển gần. Nếu
trẻ có thể bắt chước giáo viên hoặc các bạn hoàn thành một
công việc thì gần như chắc chắn là trẻ có thể tự hoàn thành
công việc tương tự. Hai nhân tố: kinh nghiệm của giáo viên
và khả năng bắt chước của trẻ cùng nhau cung cấp một dấu
hiệu rõ ràng hơn về vùng phát triển gần.
- Lịch sử cuộc sống của trẻ giúp giáo viên trong việc tiếp
cận tiềm năng phát triển và trong cách ứng xử với những
trẻ cụ thể. Nhưng không nên so sánh trực tiếp lịch sử cuộc
sống của một trẻ này với lịch sử cuộc sống của một trẻ
khác, mà phải so sánh tình trạng hiện tại của trẻ với tình
trạng tương tự của chính trẻ đó trước đây. Nếu giáo viên
nắm được lịch sử cuộc sống, những điểm mạnh/yếu của trẻ
và từ đó đóng vai trò làm một chỗ dựa cho trẻ thì tất cả mọi
trẻ đều có thể tiến bộ.
* Phát triển tính độc lập của trẻ
Các nhà Giáo dục Mầm non có vai trò sau:
Thứ nhất: Đánh giá mức độ phát triển của mỗi trẻ và quyết
định cách trợ giúp cũng như hiểu được ngay mong muốn
hoặc suy nghĩ của trẻ.
Thứ hai: Cung cấp một môi trường thể chất và tâm lý phù
hợp cho sự phát triển của trẻ.
Thứ ba: Giúp trẻ mở rộng các hoạt động, hình thành các
quan điểm và khả năng tư duy.
Để hoàn thành được những vai trò trên, giáo viên nên lưu
ý:
1) Cách tạo một môi trường tốt như thế nào (Như chuẩn bị
các vật liệu phù hợp để trẻ có thể phát triển thông qua các
hoạt động hàng ngày)
2) Cách thiết lập mối quan hệ người - người trong lớp (ví
dụ: phát triển một mối quan hệ hợp tác qua lại)
3) Cách nói chuyện với trẻ (như cách sử dụng các từ, các
diễn đạt thích hợp với mức độ phát triển và cung cấp những
gợi ý nhỏ chứ không phải là đưa ra những hướng dẫn).
Như đã nói ở trên, một trong những mục tiêu quan trọng
nhất trong Giáo dục Mầm non là phát triển tính độc lập và
lòng tự tin. Chúng ta cũng đã giải thích về tầm quan trọng
của việc tác động vào vùng phát triển gần để đạt được
những mục tiêu này. Sau đó là cách giáo viên nên cư xử với
trẻ trong hoàn cảnh thực tế như thế nào?
Những điều quan trọng.
1. Kích thích trẻ suy nghĩ
Giáo viên nên để cho trẻ một khoảng thời gian để suy nghĩ.
Người lớn tránh đưa ra tất cả các câu trả lời và tránh áp đặt
trẻ phải theo mình.
Ví dụ: Trong học kỳ hai, một cậu bé 4 tuổi không thể hiểu
được nghĩa của ký tự Hiragana (chữ viết Nhật Bản) ở trên
bảng bởi vì cậu bé đọc chúng từ bên phải sang, mà lẽ ra
phải đọc từ trái sang. Cậu bé hỏi cô giáo:
Cậu bé: KU CHI KA" là gì ạ?
Cô giáo: Đây là "KA CHI KU". Đọc từ trái sang. (Vừa chỉ
hướng vừa đọc).
Cậu bé: "KA CHI KU" là gì ạ?
Cô giáo: Đó là những con vật nuôi trong nhà, chúng sống
trong ngôi nhà của con người.
Cậu bé: (Sau khi suy nghĩ một chút, trông cậu có vẻ hài
lòng với sự giải thích của cô giáo và gật đầu)
Nhận xét: Chỉ trả lời cái trẻ hỏi. Nếu trẻ không thỏa mãn
với câu trả lời đó, chúng có thể hỏi những câu tiếp. Không
nên đưa ra những giải thích thêm hay ngay lập tức đưa ra
câu trả lời mà không đợi trẻ suy nghĩ.
2. Kích thích trẻ suy nghĩ từ nhiều quan điểm khác
nhau.
Nên đưa ra gợi ý chứ không đưa ra mệnh lệnh hay sự cấm
đoán. Ví dụ, sẽ tốt hơn khi nói với trẻ "Làm như thế
nào...?", "Tại sao con làm theo cách đó", hay "Cô nghĩ
là...", "Con đang nghĩ gì?" hơn là nói "Làm đi...!" và "Cấm
làm...". Đưa ra những lời gợi ý khiến cho trẻ tự suy nghĩ,
điều này sẽ kích thích đại não. Hơn nữa, thầy cô nên
nói/viết những suy nghĩ của bạn khác để từng trẻ biết, việc
này giúp cho trẻ hiểu được rằng có nhiều cách nghĩ khác
nhau và các bạn khác có thể có những quan điểm khác.
3. Không nên áp đặt ý kiến/quan điểm của mình.
Đôi khi trẻ không thể đưa ra quyết định cho dù giáo viên đã
gợi ý. Trong trường hợp này, giáo viên không nên áp đặt
gợi ý của mình. Không nên đưa ra quá nhiều gợi ý, hướng
dẫn hoặc áp đặt các quan điểm của mình lên trẻ. Nói cách
khác, giáo viên phải tự kiềm chế mình (nhưng đây là một
điều rất khó).
Ví dụ: (Tháng 11, học kỳ thứ 2, trong một lớp của trẻ 4
tuổi).
Dưới đây là một vài ví dụ về một cô giáo đã không hề áp
đặt ý kiến của mình lên trẻ. Cô đang làm một con kỳ lân,
một con vật chỉ có trong tưởng tượng với một cái sừng và
có hai cánh.
Trẻ: Cô làm giúp em con ngựa với.
Cô giáo: (Bắt đầu vẽ con ngựa)
Trẻ: Vẽ con ngựa một sừng cơ.
Cô giáo: À, (im lặng một lát), không phải con này à? Một
con ngựa có một sừng àh?
Trẻ: Một con kỳ lân. Nó giống như một con ngựa, nhưng
nó có một cái sừng và nó không có bờm. Và nó có sức
mạnh thần kỳ.
Cô giáo: Cô không biết con đó. Miêu tả cho cô kỹ hơn xem
nào? (Sau khi cô giúp một trẻ khác đang cần sự giúp đỡ của
mình).
Hoặc:
Cô giáo: Cô không biết phải vẽ con ngựa mà con miêu tả
như thế nào? Con hãy vẽ nó lên tờ giấy này. (Cô chuyển tờ
giấy đã được vẻ một nửa con ngựa bình thường cho trẻ).
Cô giáo: Cô rất muốn nhìn thấy con kỳ lân ở trong các
truyện kể. (Như thể cô nói với chính mình)
Trẻ: Không, cô không thể nhìn thấy nó trong bất kỳ truyện
nào. Nó chỉ là tưởng tượng.
Cô giáo: Thế thì vẽ một cái sừng lên đầu con ngựa này, và
cô có thể nhìn thấy điều mà cô muốn.
Trẻ: Nó không có tai và có một cái đầu hói (Trẻ chỉ tiếp tục
miêu tả mà không vẽ)
Cô giáo: Ô, thế thì thật thú vị. Như thế này à? Còn cái này
thì sao? (Khi trẻ không thể vẽ, cô giáo cố gắng vẽ cho trẻ,
theo những điều mà trẻ miêu tả).
Trẻ: (Trẻ lặng yên nhìn cô giáo vẽ).
Cô giáo: Những cái sừng như thế này đúng không? (Cô vẽ
hai cái sừng).
Trẻ: Nó không có hai sừng.
Cô giáo: Chỉ một sừng thôi à?
Trẻ: Vâng. (Trẻ gật đầu)
Cô giáo: Một sừng. Thế này được chưa? (Côvẽ một con
ngựa khác với một cái sừng và các chân lộ ra ngoài)
Trẻ: Nó không chạy. Con đã nói nó chỉ đứng, không phải ạ!
Cô giáo: Như thế này không đúng à? (Cô lại thêm một cái
sừng vào con ngựa đầu tiên, với hai chân khép)
Trẻ: Nó có cánh.
Cô giáo: Ô, cô hiểu rồi. Nó có phải là Pegasus không?
Trẻ: (Trẻ im lặng. Có vẻ như trẻ chưa biết về Pegasus. Sau
vài giây lưỡng lự... trẻ nói tiếp) Nó có một cái nếp nhăn khi
nó nhắm mắt.
Cô giáo: Con đã quan sát rất kỹ. (Cô vẽ một con ngựa khác,
với cái chân khép và đang bay lên không trung bằng hai
cánh).
Trẻ: (Trẻ đi tới hộp đồ chơi cầm lên bút chì màu và đũa
dùng một lần, sau đó trở lại phía cô thật nhanh). Thế con kỳ
lân thì sao ạ?
Cô giáo: Cô vừa vẽ nó. Nó như thế nào?
(Đó là con ngựa vừa mới vẽ, nhưng nó chẳng có một cái
cánh nào)
Trẻ: Ứ? (Trẻ nhìn một cách nặng nề vào con ngựa) Còn
cánh ạ?
Cô giáo: Con sẽ thêm cánh vào chứ? (Cô nghĩ rằng đấy có
thể là một ý hay khi dùng các tờ giấy riêng tạo hai cánh rồi
gắn chúng vào thân kỳ lân).
Trẻ: (Sau khi suy nghĩ giây lát, trẻ từ chối dứt khoát):
Không!
Cô giáo: (Vẽ thật nhanh hai cánh) (Cô không áp đặt ý kiến
của mình nữa)
Trẻ: (Trông đã thỏa mãn với bức tranh cô vừa vẽ. Trẻ nhận
được bức vẽ, lấy kéo cắt nó và gắn vào thân con kỳ lân vào
cái đũa bằng băng dính)
Nhận xét: Cô giáo đã gợi ý để trẻ có thể tạo ra con ngựa ba
chiều có cánh nếu trẻ gắn vào. Tuy vậy, trẻ đã không tưởng
tượng giống với cô giáo. Do vậy, cô giáo không thể áp đặt
ý định của minh đối với trẻ, mà ngay lập tức đáp ứng mong
muốn của trẻ.
Ba tháng sau: Trên đây là câu chuyện hồi tháng 11. Sau đó,
vào tháng 2, gợi ý này được cô giáo nêu ra (Con có thích
thêm 2 cánh vào không?) để mở rộng trí tưởng tượng của
trẻ về hình ảnh con ngựa, và trẻ có thể tự tạo ra những vật
thể 3 chiều.
Vì vùng phát triển gần không thể nhìn thấy, đầu tiên, đưa ra
những gợi ý nhỏ để trẻ thay đổi bản chất hay phạm vi tưởng
tượng của mình, sau đó kiểm tra lại phản ứng của trẻ. Khi
chúng không thể hiểu hoặc không chấp nhận những gợi ý
đó, giáo viên nên nhận ra rằng trình độ của trẻ không cao
như mình đã nghĩ. Điều cơ bản là không áp đặt quan điểm/
gợi ý của mình. Tóm lại, giáo viên nên "chờ đợi và quan
sát", "kiên nhẫn và không nóng vội", "không nên hối thúc
trẻ".
GS. TS Nobuko Uchida -
Hiệu phó Trường đại học Ochanomizu
(Ghi chép trong Hội thảo Quốc tế Giaó dục Mầm non
Việt Nam - Nhật bản giữa ĐHSP HN và các trường ĐH
Nhật Bản về công tác GDMN)
Ngọc Mai mamnon.com