Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh Thái Nguyên

Tóm tắt Nghiên cứu được thực hiện tại trường đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên (TUEBA) thông qua kết quả khảo sát 250 sinh viên. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phương pháp phân tích hồi quy được sử dụng để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định 66,8% ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA chị ảnh hưởng bởi các yếu tố: Kỳ vọng của bản thân; Thái độ đối với khởi nghiệp; Năng lực bản thân cảm nhận; Chuẩn mực niềm tin; Vốn tri thức; Vốn tài chính ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA.

pdf23 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
169 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN TS. Vũ Quỳnh Nam Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên Tóm tắt Nghiên cứu được thực hiện tại trường đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên (TUEBA) thông qua kết quả khảo sát 250 sinh viên. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phương pháp phân tích hồi quy được sử dụng để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định 66,8% ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA chị ảnh hưởng bởi các yếu tố: Kỳ vọng của bản thân; Thái độ đối với khởi nghiệp; Năng lực bản thân cảm nhận; Chuẩn mực niềm tin; Vốn tri thức; Vốn tài chính ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA. Từ khóa: Ý định khởi nghiệp, nhân tố ảnh hưởng, TUEBA. 1. Giới thiệu Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh là một trong 7 trường đại học thành viên thuộc Đại học Thái Nguyên. Trong đó, TUEBA là một trường đại học đào tạo chính về khối ngành kinh tế cho vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Hàng năm, số lượng sinh viên được tốt nghiệp trên một nghìn sinh viên, với các ngành chính: Kế toán; Tài chính ngân hàng; Quản trị; Kinh tế nông nghiệp;. Những năm qua TUEBA đã không ngừng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng viên, nghiên cứu viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho sinh viên nhằm đảm bảo giúp sinh viên ra trường có thể đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của xã hội. Đặc biệt, với chương trình mục tiêu quốc gia về khởi nghiệp. Trong đó, khuyến khích khởi nghiệp trong sinh viên đã được nhà trường tích cực quan tâm và triển khai: triển khai cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp lần thứ nhất của Đại học Thái Nguyên năm 2017; tổ chức chương trình Talkshow “khát vọng khởi nghiệp” cho sinh viên; tổ chức cuộc thi “ý tưởng khởi nghiệp” cho sinh viên năm 2018; và cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp CIC năm 2019, và nhiều hoạt động tư vấn hỗ trợ khởi nghiệp cho sinh viên trong toàn trường. 170 Tuy nhiên, thực tế sinh viên của Nhà trường khởi nghiệp còn rất ít. Hiện nay, Nhà trường chưa có số liệu thống kê cụ thể về số lượng sinh viên ra trường khởi nghiệp, song theo đánh giá của nghiên cứu thì số lượng này còn rất hạn chế. Nguyên nhân do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chính là do sinh viên thiếu các kiến thức cơ bản về khởi nghiệp, thiếu niềm đam mê khởi nghiệp, thiếu nguồn vốn tài trợ cho khởi nghiệp, Trước thực trạng khởi nghiệp của sinh viên Nhà trường, nghiên cứu tiến hành khảo sát 250 sinh viên năm cuối để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên. Từ đó, đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp của Nhà trường đối với sinh viên trong thời gian tới. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Một số lý thuyết về khởi nghiệp Lý thuyết dự định hành vi (TPB) của Ajzen (1991) cho rằng, hành vi của con người được xuất phát từ thái độ của họ trước phản ứng về hành vi đó, có thể được hiểu là sự tán thành của người đó với hành vi đó. Nếu thái độ tích cực ủng hộ một hành vi nào đó con người sẽ xem xét đến những yếu tố như áp lực xã hội, của người thân xem họ ủng hộ hay không ủng hộ hành vi đó và được gọi là quy chuẩn chủ quan sẽ tạo nên ý định thực hiện hành vi của con người, và được thể hiện bằng kế hoạch hay khả năng một người nào đó, trong bối cảnh nhất định nào đó sẽ thực hiện hành vi, từ đó nhận thức kiểm soát hành vi. Trong đó, thái độ được khái niệm như là sự đánh giá tích cực hay tiêu cực về hành vi thực hiện, còn quy chuẩn chủ quan là ảnh hưởng bởi sức ép xã hội được cảm nhận để thực hiện hay không hành vi đó, còn nhận thức kiểm soát hành vi là việc phản ánh cá nhân cảm thấy dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi, điều này phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực và các cơ hội để thực hiện hành vi. Vận dụng lý thuyết hành vi, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về ý định khởi nghiệp trong và ngoài nước như Sokol và cộng sự (1982), đã đề xuất lý thuyết sự kiện khởi nghiệp (EEM). Lý thuyết này cho rằng khởi nghiệp sẽ xuất hiện khi một cá nhân phát hiện ra một cơ hội khởi nghiệp và kỳ vọng vào nó; Mariani và cộng sự (2013), cho rằng ý định khởi nghiệp là quá trình nhận dạng, đánh giá và khai thác các cơ hội kinh doanh đến với mỗi cá nhân; Wenjun Wang và cộng sự (2011) cho rằng ý định khởi nghiệp là khát khao đạt được mục tiêu mong muốn thông qua việc tận dụng cơ hội kinh doanh để làm giàu; Theo Austin (2006) thì khởi sự kinh doanh là việc tận dụng cơ hội kinh doanh để làm giàu bằng cách khởi xướng các phương thức hoạt động sáng tạo trong điều kiện môi trường hạn chế về nguồn lực. 171 Tại Việt Nam, các nghiên cứu của Nguyễn Hải Quang và cộng sự (2017); Nguyễn Quốc Nghi (2016); Nguyễn Thị Tuyết Mai và cộng sự (2009), cũng đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên bao gồm các biến: kỳ vọng của bản thân; thái độ đối với khởi nghiệp; năng lực bản thân cảm nhận; chuẩn mực niềm tin; vốn tri thức và vốn tài chính. Kế thừa các nghiên cứu trước, nghiên cứu tiến hành ứng dụng đối với sinh viên năm cuối của TUEBA. Với các biến được kế thừa như sau: Yếu tố Kỳ vọng của bản thân (KV): Theo Wenjun Wang và cộng sự (2011) thì kỳ vọng bản thân là những mong muốn, những hy vọng của cá nhân về khả năng họ có thể thực hiện một hành động nào đó, kỳ vọng càng cao thì ý định khởi nghiệp càng lớn. Kỳ vọng của bản thân được đo lường bằng: Cơ hội khởi nghiệp và kỳ vọng vào nó (Sokol, 1982); Kỳ vọng vào tính hấp dẫn (Souitaris và cộng sự, 2007); Mong muốn, hy vọng để thực hiện kỳ vọng (Krueger và cộng sự, 2000); Khát khao đạt được mục tiêu mong muốn (Wenjun Wang và cộng sự, 2011); Thái độ của sinh viên (Dinis, 2013); Nguyễn Hải Quang và cs, 2017); Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự, 2016). Yếu tố Thái độ đối với khởi nghiệp (TD): Theo Ajzen và cộng sự (1991) thái độ đối với khởi nghiệp là xác suất chủ quan của một người mà họ sẽ thực hiện một số hành vi nào đó. Những người có thái độ tích cực, có niềm đam mê trong kinh doanh sẽ tác động thuận chiều với ý định khởi nghiệp. Thái độ đối với khởi nghiệp được đo lường bằng: Thái độ tích cực (Ajzen, 1991); Alsos và cộng sự, 1998); Shook và cộng sự, 2003); Autio và cộng sự, 2001); Linan và cộng sự, 2011); Đam mê kinh doanh (Ajzen và cộng sự, 1991); Alsos và cộng sự, 1998); Mức độ sẵn sàng khởi nghiệp khi cơ hội đến (Krueger & cộng sự, 2000); Dám chấp nhận rủi ro (Kolvereid và cộng sự, 2006); Có cá tính độc lập (Kolvereid và cộng sự, 2006) Yếu tố Năng lực bản thân cảm nhận (NL): Linnan và cộng sự (2009) cho rằng, năng lực bản thân cảm nhận là sự nhận thức về khả năng thực hiện một hành động nào đó thông qua khả năng thiết lập, duy trì, kiểm soát các cơ hội. Yếu tố này được đo lường bằng: Cảm nhận lạc quan về năng lực của mình (Krueger và cộng sự, 2000); Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự, 2016); Cảm nhận được khả năng thiết lập, duy trì và kiểm soát cơ hội (Linnan và cộng sự, 2009); Khả năng xử lý tình huống và nuôi dưỡng các ý tưởng kinh doanh (Autio và cộng sự, 2001); Bản thân là người hiện đại (Nguyễn Thị Tuyết Mai và cộng sự, 2009). Yếu tố Chuẩn mực niềm tin (NT): Krueger và cộng sự (2000) cho rằng, chuẩn mực niềm tin là niềm tin cá nhân có tính chất xã hội và bị chi phối bởi những cá nhân khác trong xã hội. Yếu tố này được đo lường bằng: Tự tin và bản nhân (Krueger và cộng sự, 2000); Amou và cs, 2014); Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự, 2016); Phan Anh Tú, 2015); Niềm tin từ sự ủng hộ của gia đình (Mueller, 2006); Phạm Quốc Tùng, 172 2012); Kinh nghiệm kinh doanh của bản thân (Mueller, 2006); Lê Hiếu Học và cộng sự, 2018); Phan Anh Tú, 2015). Yếu tố Vốn tri thức (TT): Linnan và cộng sự, (2009) cho rằng vốn tri thức là những tri thức mà sinh viên thu nhận được từ các hoạt động đào tạo của nhà trường với các nội dung chương trình đào tạo gắn với hoạt động khởi nghiệp của sinh viên. Yếu tố này được đo lường bằng: Phân tích chiến lược kinh doanh (Ibrahim và cộng sự (2002); Marketing trong doanh nghiệp (Souitaris (2007); Kỹ năng khởi nghiệp (Rengiah (2013); Linnan và cộng sự (2009); Kiến thức khởi nghiệp (Linnan và cộng sự, 2009); Rengiah (2013); Lập kế hoạch và phân tích kế hoạch (Rengiah (2013); Luyện tập các kỹ năng kinh doanh phức tạp (Rengiah (2013) Yếu tố Vốn tài chính (TC): Nguyễn Thị Tuyết Mai và cộng sự (2009), vốn tài chính là yếu tố quyết định đến ý định khởi nghiệp của một cá nhân. Vốn tài chính bao gồm: Vốn tự có (Amou và cộng sự (2014); Vốn vay từ người thân (Nguyễn Hải Quang và cộng sự (2017); Nguyễn Thị Tuyết Mai và cộng sự (2009); Vốn tín dụng (Lương Ngọc Minh (2019); Vốn được huy động từ các tổ chức, các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp (Lương Ngọc Minh (2019); Nguyễn Hải Quang và cộng sự (2017). Yếu tố Ý định khởi nghiệp (KN): Theo Marco và cộng sự (2013) cho rằng, ý định khởi nghiệp là một trạng thái của tâm trí nhấn mạnh đến sự quan tâm của một các nhân và kinh nghiệp thực tiễn của họ để thực hiện một hành vi kinh doanh, bao gồm: Sự tán thành đối với hoạt động khởi nghiệp (Fishbein và cộng sự, 1975); Kế hoạch thực hiện hành vi kinh doanh (Marco và cộng sự (2013); Souitaris và cộng sự (2007); Tận dụng cơ hội để khởi nghiệp kinh doanh (Austin, 2006). Giả thuyết nghiên cứu: Giả thuyết 1: Yếu tố kỳ vọng bản thân có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA Giả thuyết 2: Yếu tố thái độ đối với khởi nghiệp có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA Giả thuyết 3: Yếu tố năng lực bản thân cảm nhận có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA Giả thuyết 4: Yếu tố chuẩn mực niềm tin có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA Giả thuyết 5: Yếu tố vốn tri thức có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA. Giả thuyết 6: Yếu tố vốn tài chính có tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA. 173 Mô hình nghiên cứu đề xuất cho phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA. Sơ đồ 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất 2.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng bao gồm: phương pháp thống kê mô tả nhằm phân tích thực trạng sinh viên TUEB tốt nghiệp giai đoạn 2016-2018 và thống kê đối tượng khảo sát; phương pháp EFA được sử dụng để phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên. H6 H1 H2 H3 H4 H5 Kỳ vọng của bản thân (KV) Thái độ với KN (TD) Năng lực bản thân cảm nhận (NL) Chuẩn mực niềm tin (NT) Ý định khởi nghiệp sinh viên TUEBA (KN) Vốn tài chính (TC) Vốn tri thức (TT) 174 Bảng 1. Đặc điểm đối tượng khảo sát Tiêu chí Số người Tỷ trọng (%) Giới tính Nam 53 21,2 Nữ 197 78,8 Dân tộc Kinh 168 67,2 Thiểu số 82 32,8 Hoàn cảnh gia đình (nghề nghiệp của bố, mẹ) Công chức nhà nước 44 17,6 Doanh nghiệp 26 10,4 Buôn bán 69 27,6 Nông dân 111 44,4 Thu nhập trung bình của gia đình (triệu đồng/tháng) <5 9 3,6 5 - 10 38 15,2 10 - 20 176 70,4 >20 27 10,8 Trình độ học vấn của bố mẹ THCS 3 1,2 THPT 39 15,6 Trung cấp - cao đẳng 144 57,6 Đại học- trên đại học 64 25,6 Tổng 250 100 (Nguồn: Khảo sát của tác giả) 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Đánh giá chất lượng các thang đo và các biến quan sát Bảng 2 cho thấy các Hệ số tương quan biến tổng điều chỉnh (Corrected Item-Total Correlation) của các biến quan sát đều > 0,3 nên 27 biến quan sát đều có chất lượng tốt. Mặt khác, các nhân tố (thang đo) đều có Cronbach’s Alpha tổng thể >0,6 nên toàn bộ các các nhân tố đều đạt yêu cầu về chất lượng để đưa vào phân tích EFA. 175 Bảng 2: Cronbach’s Alpha và Hệ số tương quan biến tổng điều chỉnh Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted Kỳ vọng của bản thân: Cronbach’s Alpha = 0,900 KV1 13.89 3.843 .881 .851 KV2 13.94 4.454 .607 .907 KV3 14.01 3.739 .659 .911 KV4 13.86 3.835 .938 .841 KV5 13.92 4.127 .753 .879 Thái độ đối với khởi nghiệp: Cronbach’s Alpha = 0,949 TD1 12.700 13.464 .613 .977 TD2 13.248 11.609 .923 .926 TD3 13.252 11.482 .923 .926 TD4 13.204 11.336 .957 .920 TD5 13.132 11.497 .898 .930 Năng lực bản thân cảm nhận: Cronbach’s Alpha = 0,882 NL1 10.384 2.254 .869 .802 NL2 10.412 2.548 .677 .873 NL3 10.516 2.235 .598 .926 NL4 10.352 2.269 .911 .791 Chuẩn mực niềm tin:Cronbach’s Alpha = 0,673 NT1 7.24 1.010 .547 .602 NT2 7.39 1.009 .469 .600 NT3 7.28 1.023 .445 .633 Vốn tri thức: Cronbach’s Alpha = 0,915 TT1 16.99 7.988 .663 .916 TT2 16.77 8.838 .592 .921 TT3 16.84 8.290 .644 .917 TT4 16.67 7.572 .887 .881 TT5 16.72 7.911 .950 .877 TT6 16.70 7.755 .891 .882 Vốn tài chính: Cronbach’s Alpha = 0,678 TC1 10.296 2.378 .560 .658 TC2 10.336 2.593 .418 .639 TC3 10.432 2.118 .444 .633 TC4 10.312 2.288 .449 .620 Kiểm định tính thích hợp của EFA 176 Kết quả phân tích nhân tố các biến độc lập cho thấy KMO đạt 0.701> 0.5 với kiểm định Barlett’s có Sig.=0,000<0,05 nên các biến quan sát có tương quan tuyến tính tới nhân tố đại diện và dữ liệu thích hợp cho phân tích EFA. Kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát đối với các nhân tố độc lập Bảng 3. Mức độ giải thích của các biến quan sát Total Variance Explained Component Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings Rotation Sums of Squared Loadings Total % of Variance Cumulative % Total % of Variance Cumulative % Total % of Variance Cumulative % 1 8.573 31.753 31.753 8.573 31.753 31.753 5.497 20.361 20.361 2 4.460 16.517 48.270 4.460 16.517 48.270 4.481 16.596 36.957 3 3.876 14.354 62.625 3.876 14.354 62.625 4.235 15.687 52.644 4 1.864 6.903 69.528 1.864 6.903 69.528 4.212 15.599 68.243 5 1.558 5.770 75.298 1.558 5.770 75.298 1.905 7.055 75.298 6 .953 3.531 78.829 7 .793 2.937 81.766 8 .679 2.514 84.279 9 .623 2.306 86.586 10 .591 2.188 88.774 11 .544 2.014 90.787 12 .439 1.626 92.413 13 .410 1.520 93.933 14 .293 1.085 95.018 15 .280 1.039 96.056 16 .225 .832 96.889 17 .179 .663 97.551 18 .157 .581 98.132 19 .118 .435 98.568 20 .085 .314 98.881 21 .081 .301 99.182 22 .073 .271 99.453 23 .050 .184 99.637 24 .040 .148 99.785 25 .032 .119 99.904 26 .026 .096 99.908 27 .022 .091 100.000 Extraction Method: Principal Component Analysis. Qua bảng 3 ta thấy, tại cột Cumlative cho biết trị số phương sai trích (% cumulative variance) là 75,298. Điều này có nghĩa là 75,298% thay đổi của các nhân tố được giải thích bởi các biến quan sát. Eigenvalues của nhân tố đều >1 cho thấy các nhân tố này là những tóm tắt rất tốt thông tin của các biến quan sát thành phần. 177 Kết quả EFA cho các nhân tố Bảng 4: Bảng kết quả xoay nhân tố cho các nhân tố độc lập Component 1 2 3 4 5 6 KV1 .851 KV2 .907 KV3 .911 KV4 .841 KV5 .879 TD1 .977 TD2 .926 TD3 .926 TD4 .920 TD5 .930 NL1 .802 NL2 .873 NL3 .926 NL4 .791 NT1 .602 NT2 .600 NT3 .633 TT1 .916 TT2 .921 TT3 .917 TT4 .881 TT5 .877 TT6 .882 TC1 .658 TC2 .639 TC3 .633 TC4 .620 178 Qua bảng 4, các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố Factor loading >0,5, thực tế đều ≥ 0,600 cho thấy hệ số tương quan riêng giữa từng biến quan sát và từng nhân tố đại diện của nó đều ở mức tương đối chặt chẽ đến chặt chẽ. Vì vậy, có 6 nhân tố (là các biến độc lập) đại diện cho các biến quan sát tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA Bảng 5. Bảng kết quả xoay nhân tố cho nhân tố phụ thuộc Biến quan sát Hệ số tải nhân tố KN1 .811 KN2 .731 KN3 .657 Kết quả phân tích nhân tố phụ thuộc (ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA) cho thấy: Factor Loading > 0,5, thực tế đều ≥ 0,657 cho thấy hệ số tương quan riêng giữa từng biến quan sát và từng nhân tố đại diện của nó đều ở mức chặt chẽ. Vì vậy, nhân tố ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA (biến phụ thuộc) là đại diện tốt cho các biến quan sát. 3.2. Phân tích hồi quy Chạy hồi quy với biến phụ thuộc là “Ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA” (KN); 06 biến độc lập gồm “Kỳ vọng của bản thân” (KV); “Thái độ với khởi nghiệp” (TD); “Năng lực bản thân cảm nhận” (NL); “Chuẩn mực niềm tin” (NT); “Vốn tri thức” (TT); và “Vốn tài chính” (TC). Bảng 6. Tóm tắt mô hình Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 1 0,868 0,689 0,668 0,56899087 Bảng 7 : Phân tích phương sai (ANOVAa) Model Sum of Squares df Mean Square F Sig. Regression 145,806 6 27,974 86,570 0,000 Residual 68,495 243 0,356 Total 249,000 249 179 Bảng 8: Kết quả hồi quy Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. Collinearity Statistics B Std. Error Beta Tolerance VIF 1 Constant 0,002 0,032 0,054 0,000 KV 0,102 0,034 0,191 0,128 0,014 10,000 10,000 TD 0,128 0,034 0,125 0,256 0,005 0,999 10,001 NL 0,263 0,034 0,235 0,453 0,001 0,999 10,001 NT 0,453 0,034 0,650 0,321 0,003 0,996 10,004 TT 0,675 0,034 0,743 0,183 0,000 0,996 10,001 TC 0,723 0,034 0,326 0,124 0,000 0,993 10,003 3.3. Thảo luận Tại bảng 7, F=86,570, có ý nghĩa thống kê ở mức 0,000 ( Sig,=0,000) nên mô hình hồi quy có ý nghĩa thống kê. Bảng 8 cho thấy, tất cả các hệ số hồi quy chưa chuẩn hoá của 6 biến độc lập đều có Sig = 0.00 < 0,05 hàm ý rằng 6 biến độc lập đưa vào mô hình đều có ý nghĩa thống kê trong quan hệ với biến phụ thuộc. Các kiểm định về đa cộng tuyến (multi-collinearity), tự tương quan (autocorrelation), phương sai của sai số không đổi (heteroscadasticity) đều thoả mãn cho thấy hàm hồi quy không vi phạm các giả thiết OLS. Các hệ số hồi quy không chuẩn hoá (Unstandardized Coefficients-B) đều có giá trị dương, nên các biến độc lập này đều có quan hệ thuận chiều với biến phụ thuộc. Bảng 6 cho thấy, hệ số R2 (R square) là 0,689 và R2 điều chỉnh (adjusted R square) là 0,668. Nghĩa là mô hình với 6 biến độc lập có ý nghĩa thống kê là “Kỳ vọng của bản thân” (KV); “Thái độ với khởi nghiệp” (TD); “Năng lực bản thân cảm nhận” (NL); “Chuẩn mực niềm tin” (NT); “Vốn tri thức” (TT); và “Vốn tài chính” (TC) có thể giải thích được 66,8% sự biến động của ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA (KN). Từ bảng 8, sử dụng hệ số hồi quy chưa chuẩn hoá, ta có: KN=0,003+0,102 KV + 0,128 TD + 0,263 NL + 0,453 NT + 0,675TT + 0,723 TC Bên cạnh đó, trị số của các hệ số hồi quy chuẩn hóa (Standardized Coefficients - Beta) cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA theo mức độ tác động từ mạnh hơn đến yếu hơn sẽ lần lượt là: vốn tri thức; chuẩn 180 mực niềm tin; vốn tài chính; năng lực bản thân cảm nhận; kỳ vọng của bản thân; thái độ với khởi nghiệp. Trong đó, yếu tố vốn tri thức có tác động mạnh nhất đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA. 4. Kết luận và kiến nghị Có 6 yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên TUEBA theo mức độ tác động lần lượt là: vốn tri thức; chuẩn mực niềm tin; vốn tài chính; năng lực bản thân cảm nhận; kỳ vọng của bản thân; thái độ với khởi nghiệp. Để tăng cường ý định về khởi nghiệp cho sinh viên trường Đại học Kinh tế & QTKD Thái Nguyên, căn cứ vào kết quả nghiên cứu, các giải pháp được kiến nghị như sau: Một là, nâng cao nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của khởi nghiệp đối với chính bản thân mỗi sinh viên, thông qua các buổi tọa đàm, các buổi tư vấn hướng nghiệp. Từ đó, giúp sinh viên nâng cao được kỳ vọng của bản thân vào ý định khởi nghiệp. Hai là, thiết lập các nhóm, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp tại trường, tại các Khoa chuyên môn, nhằm nâng cao thái độ của từng sinh viên, từng nhóm sinh viên đối với các ý tưởng khởi nghiệp. Ba là, liên kết với các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp tại địa phương, trong đó là các trường đ
Tài liệu liên quan