Chuyện thần thoại về nguồn gốc loài
người từ thời Trung Quốc cổ đại đã kể về
bà Nữ Oa dùng đất sét nặn ra con người
và thổi vào đó linh hồn để tạo nên sự
sống. Trong các huyền thoại Ai Cập
có chuyện thần Hanuman cũng dùng
đất tạo ra con người trên các bàn xoay
làm đồ gốm, rồi đưa linh hồn cho con
người “Đất sét” mà thần đã sáng tạo, và
nhiều chuyện khác nữa,. Người Việt cổ
từ xa xưa cũng giải thích theo huyền
thoại cho rằng nguồn gốc dân tộc mình là
“Con Rồng, cháu Tiên”.
6 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4067 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các quan niệm về nguồn gốc loài người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các quan niệm về
nguồn gốc loài người
Các vấn đề về nguồn gốc sự sống, nguồn
gốc loài người và nguồn gốc vũ trụ đã từ
lâu luôn luôn được xem là những vấn đề
thường xuyên lôi cuốn sự quan tâm của
nhân loại.
Quan niệm thần thoại và tôn giáo:
Chuyện thần thoại về nguồn gốc loài
người từ thời Trung Quốc cổ đại đã kể về
bà Nữ Oa dùng đất sét nặn ra con người
và thổi vào đó linh hồn để tạo nên sự
sống. Trong các huyền thoại Ai Cập
có chuyện thần Hanuman cũng dùng
đất tạo ra con người trên các bàn xoay
làm đồ gốm, rồi đưa linh hồn cho con
người “Đất sét” mà thần đã sáng tạo, và
nhiều chuyện khác nữa,... Người Việt cổ
từ xa xưa cũng giải thích theo huyền
thoại cho rằng nguồn gốc dân tộc mình là
“Con Rồng, cháu Tiên”. Rồi đến kinh
thánh của Thiên chúa giáo thì giải thích
nguồn gốc các loài vật và loài người một
cách có hệ thống, điển hình là chuyên
thần Ađam và Eva chỉ trong một tuần lễ
đã sáng tạo ra tất cả muôn vật, muôn loài,
kể cả loài người. Theo kinh thánh thì
ngày thứ 5, Tạo hoá đã hoàn thành việc
sáng tạo các động vật thuỷ sinh và chim,
đến ngày thứ 6 thì xuất hiện các loài
động vật khác và con người.
Quan niệm của Linnaeus về vị trí phân
loại loài người:
Cần phải nói người Cổ Hy Lạp lần đầu
tiên đã đưa ra các quan niệm khoa học về
nguồn gốc sự sống từ hơn 500 năm trước
Công nguyên. Nhà phân loại học
Linnaeus là người đầu tiên xếp con người
vào hệ thống phân loại của thế giới sinh
vật. Năm 1758, cuốn sách “Hệ thống tự
nhiên” xuất bản lần thứ 2, trong đó
Linnaeus đã xếp người vào bộ Linh
trưởng (Primates). Ông đã đặt tên
cho giống người là Homo gồm 2
loài: Homo sapiens và Homo
troglodytes. Riêng H. troglodytes theo
mô tả của các nhà du lịch là loài người
chỉ hoạt động ban đêm và có đặc tính gần
giống đười ươi và hắc tinh tinh. Đến năm
1760, Carl Hoppius, là một học trò của
Linnaeus, đã mô tả một loài người gọi là
H. caudatus - người có đuôi. Điều đó gây
nên dư luận xôn xao. Tuy nhiên,
Linnaeus chỉ quan niệm có một loài
H. sapiens là chủ yếu, có 4 chủng
người khác nhau: Người Âu da trắng,
người Mỹ da đỏ, người A da vàng và
người Phi da đen. Nhà biến hình luận
Buffong không đồng ý với Linnaeus
và cho rằng chỉ có một giống người
duy nhất. Đến thế kỷ XVIII con người đã
có vị trí xác định trong hệ thống phân
loại sinh giới.
2. VỊ TRÍ PHÂN LOẠI CỦA LOÀI
NGƯỜI TRONG GIỚI ĐỘNG VẬT
Loài người thuộc ngành Có dây sống
(Chordata), phân ngành Có xương
sống (Vertebrata), lớp Thú
(Mammalia), phân lớp Thú bậc cao
(Eutheria), bộ Có tay (Primates), họ
Homonidae, giống Homo. Loài người (
Homo sapiens) thuộc lớp Thú đã được
xác định, mô tả, có 3 lớp phụ: Prototheria
(có thú mỏ vịt), Theria (có kanguru) và
Eutheria (Đây là lớp phụ có bộ Primates.
Bộ này lại chia làm 2 bộ phụ là Prosimii
(có vượn cáo) và Anthropoidea gồm
các siêu họ, như Ceboidea (Khỉ đuôi
dài), Cercopithecoidea (Khỉ Mandrill)
và Hominoidea. Siêu họ Hominoidea
có 2 họ là Pongidae (Có các vượn
người, như khỉ đột và hắc tinh tinh) và
Hominoidae (chỉ có loài người).
Bộ có tay phân hoá thành hàng trăm loài,
trong đó có loài người (Homo sapiens).
Về các giống vượn người ngày nay, thì
họ khỉ dạng người gọi tắt là vượn người,
gồm các giống chính: vượn, đười ươi,
gorila và tinh tinh. Nhiều nghiên cứu cho
thấy trong các giống vượn người thì tinh
tinh có quan hệ họ hàng gần nhất với
người.