Xác định giá chứng khoán (CK) là một công việc phức tạp và
thực sự cần thiết đối với các nhà đầu tư CK. CK đó đáng giá bao
nhiêu và lúc nào nên mua-bán là một câu hỏi mà bất cứ nhà đầu
tư nào cũng mong mình giải đúng.
Cùng với lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK)
thế giới, có thể tổng kết được 6 trường phái trong phân tích CK.
1. Phân tích cơ bản
Điều mà nhà phân tích cơ bản coi như kim chỉ nam chính là cho
rằng giá trị thực của một công ty có mối quan hệ mật thiết với các
đặc tính tài chính như: khả năng phát triển; những rủi ro mà công
ty có thể gặp phải; dòng tiền mặt. Bất kỳ một sự chệch hướng
nào so với giá trị thực cũng là dấu hiệu cho thấy cổ phiếu (CP) đó
đang ở dưới hoặc vượt quá giá trị thực.
10 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2112 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các trường phái chính trong phân tích chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các "trường phái" chính trong phân
tích chứng khoán
Xác định giá chứng khoán (CK) là một công việc phức tạp và
thực sự cần thiết đối với các nhà đầu tư CK. CK đó đáng giá bao
nhiêu và lúc nào nên mua-bán là một câu hỏi mà bất cứ nhà đầu
tư nào cũng mong mình giải đúng.
Cùng với lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK)
thế giới, có thể tổng kết được 6 trường phái trong phân tích CK.
1. Phân tích cơ bản
Điều mà nhà phân tích cơ bản coi như kim chỉ nam chính là cho
rằng giá trị thực của một công ty có mối quan hệ mật thiết với các
đặc tính tài chính như: khả năng phát triển; những rủi ro mà công
ty có thể gặp phải; dòng tiền mặt... Bất kỳ một sự chệch hướng
nào so với giá trị thực cũng là dấu hiệu cho thấy cổ phiếu (CP) đó
đang ở dưới hoặc vượt quá giá trị thực.
Một chiến lược đầu tư dài hạn thường dựa vào những giả thiết
như:
a. Mối quan hệ giữa giá trị và các yếu tố tài chính là có thể đo
lường được.
b. Mối quan hệ này ổn định trong một khoảng thời gian đủ dài.
c. Các sai lệch của mối quan hệ sẽ được điều chỉnh lại vào thời
điểm thích hợp.
Giá trị là mục tiêu chính trong phân tích cơ bản. Một số nhà phân
tích thường sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền mặt để
xác định giá trị của công ty, trong khi đó một số người lại sử dụng
tỷ số giá trên thu nhập (P/E) hoặc giá trị số tích...
Khi những nhà phân tích này nắm giữ một số lượng lớn các CP
đang ở dưới giá trị trong danh mục đầu tư nghĩa là họ đang nuôi
hy vọng danh mục này sẽ đem lại một mức lợi nhuận cao hơn
mức trung bình của thị trường.
2. Mua đặc quyền kinh doanh
Nhà mua đặc quyền kinh doanh thường tập trung vào một số ít
các công ty mà họ hiểu rõ và họ sẽ tiến hành mua CP khi những
công ty này đang ở dưới giá trị thực. Thường thì nhà mua đặc
quyền kinh doanh sẽ có ảnh hưởng lên Ban quản lý và có thể
thay đổi chính sách tài chính hoặc chính sách đầu tư của công ty.
Trên khía cạnh đầu tư dài hạn thì:
a. Nhà đầu tư hiểu rõ công ty sẽ ở vị thế tốt hơn trong định giá
công ty.
b. Có thể mua những công ty ở dưới giá trị thực mà không làm
cho giá của chúng tiến đến gần giá trị thực.
Giá trị cũng đóng vai trò chủ chốt và nhà mua đặc quyền kinh
doanh sẽ hướng sự chú ý của mình vào những công ty mà họ tin
tưởng công ty đó đang ở dưới giá. Ngoài ra, họ cũng quan tâm
tìm hiểu xem họ sẽ gia tăng được thêm bao nhiêu giá trị cho công
ty nếu họ có thể tái cơ cấu lại công ty.
3. Biểu đồ (phân tích kỹ thuật)
Những nhà phân tích kỹ thuật tin tưởng rằng phần giá cả dao
động do tâm lý của các nhà đầu tư ít nhất cũng bằng phần dao
động do các yếu tố tài chính. Những thông tin có sẵn như dao
động giá, khối lượng giao dịch, bán khống... sẽ cung cấp những
chỉ báo về tâm lý của nhà đầu tư về dao động giá trong lương lai.
Nhưng nhìn chung có thể thấy các nhà đầu tư cá thể đầu tư theo
cảm tính nhiều hơn là đầu tư theo các phân tích hợp lý.
Trong khi giá trị không đóng vai trò chính trong phân tích kỹ thuật
thì cũng có nhiều con đường để nhà phân tích kỹ thuật có thể kết
hợp vào phân tích. Giá trị có thể được sử dụng ví dụ như để
quyết định đường hỗ trợ hoặc kháng cự trên biểu đồ giá.
Trên một biểu đồ đường hỗ trợ thường căn cứ vào điểm dưới mà
dưới điểm đó giá có khuynh hướng ngừng giảm, còn đường
kháng cự được căn cứ vào điểm trên mà trên điểm đó giá có
khuynh hướng ngừng tăng. Những mức này thường được dự
tính theo giá quá khứ, biên độ của giá tính theo phương pháp giá
trị có thể được sử dụng để quyết định. Có nghĩa là giá trị tối đa sẽ
trở thành mức kháng cự và giá trị tối thiểu sẽ trở thành đường hỗ
trợ.
4. Thông tin
Giá cả lên xuống phụ thuộc vào thông tin về công ty. Những nhà
giao dịch căn cứ vào thông tin giao dịch (dựa trên lợi thế thông tin
mới hoặc ngay sau khi thông tin được công bố trên thị trường),
họ sẽ mua vào khi có tin tốt và bán ra khi có tin xấu. Giả thiết
được đưa ra là các nhà giao dịch có thể dự đoán thông tin sắp
công bố và đánh giá được phản ứng của thị trường tốt hơn nhà
đầu tư thông thường.
Đối với nhà kinh doanh dựa vào thông tin thì việc nghiên cứu mối
quan hệ giữa thông tin và sự thay đổi giá là quan trọng hơn việc
nghiên cứu giá trị. Do đó, nhà kinh doanh này có thể mua một
công ty có giá vượt quá giá trị thực dựa trên niềm tin rằng thông
tin kế tiếp là những thông tin tốt, vượt mức mong đợi và sẽ đẩy
được giá lên.
Như vậy, nếu có mối quan hệ trong việc công ty ở dưới giá, trên
giá và xác định được cơ chế của giá CP phản ứng lại những
thông tin trên thị trường thì nhà đầu tư dựa trên thông tin sẽ có
những quyết định đầu tư hợp lý.
5. Thời điểm
Những nhà đầu tư thời điểm cho rằng dự đoán thay đổi của cả thị
trường thì dễ hơn việc chọn lựa cụ thể một CP nào đó và như
vậy việc dự đoán được dựa trên những yếu tố có thể quan sát
được.
Trong khi việc xác định giá trị của một CP có thể không sử dụng
công cụ của nhà phân tích thời điểm thì chiến lược tính toán thời
điểm thị trường lại có thể sử dụng công cụ giá trị bằng ít nhất hai
cách sau:
a. Tổng thị trường tự nó được định giá và so sánh theo thời điểm
hiện tại.
b. Mô hình giá trị có thể được sử dụng để tính toán giá trị của tất
cả các CP và kết quả từ việc kiểm tra chéo có thể được sử dụng
để quyết định xem thị trường đang ở dưới hoặc trên giá trị thực
của nó.
6. Thị trường hiệu quả
Những nhà thị trường hiệu quả tin tưởng rằng giá cả tại một thời
điểm nào đại diện cho dự đoán tốt nhất về giá trị thực của công ty
và bất cứ dự định nào nhằm hưởng lợi từ thị trường hiệu quả sẽ
tốn kém hơn là lợi nhuận thu được. Họ cho rằng thị trường thích
hợp thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và các nhà đầu
tư theo kiểu vay-mua sẽ lập tức lấp đầy những khoảng không
hiệu quả.
Đối với nhà phân tích thị trường hiệu quả thì giá trị là một công cụ
kiểm tra hữu hiệu để hiểu rõ tại sao một CP được bán ở mức giá
đó. Kể từ khi giả thiết giá thị trường là dự đoán tốt nhất đối với
giá trị thực của công ty thì đối tượng quyết định đối với giả thiết
này là phân tích tác động của mức tăng trưởng và rủi ro trong giá
thị trường hơn là việc tìm kiếm công ty ở dưới hoặc lên giá trị
thực.