Các vấn đề nuôi thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long

Nuôi thủy sản là một trong những ngành sản xuất nông nghiệp quan trọng của Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong đó, cá tra là đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết việc làm cho hàng loạt lao động nông thôn, góp phần cải thiện đời sống người dân và thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính vì vậy thu hút nhiều người nuôi làm cho diện tích và sản lượng tăng cao.

doc19 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2706 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các vấn đề nuôi thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU c & d Nuôi thủy sản là một trong những ngành sản xuất nông nghiệp quan trọng của Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong đó, cá tra là đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết việc làm cho hàng loạt lao động nông thôn, góp phần cải thiện đời sống người dân và thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính vì vậy thu hút nhiều người nuôi làm cho diện tích và sản lượng tăng cao. Tuy nhiên, mặc dù nghề nuôi cá tra mang lại nhiều lợi ích như vậy nhưng cũng còn nhiều bất cập như người dân nuôi không đúng quy hoạch, nước thải chủ yếu thải ra sông không qua xử lý, gây ảnh hưởng đến môi trường, tác động đến đời sống người dân. Đây là vấn đề bức xúc hiện nay. Những năm gần đây, diện tích nuôi cũng như số hộ nuôi có biến động lớn. Theo thống kê, diện tích ao nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long đã tăng lên đáng kể. Cụ thể, năm 2003 diện tích nuôi cá tra của ĐBSCL là 2.792 ha đến 2007 lên tới 5.429 ha. Nhưng vấn đề đặt ra là, các hộ nuôi ở đây chủ yếu là tự phát, không có ao xử lý nước thải, nước thải hầu hết là thải ra sông, nên gây ảnh hưởng môi trường nước, gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Bên cạnh đó, khi mở rộng diện tích nuôi cá tra theo hướng sản xuất hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và làm tăng thu nhập cho người dân thì vấn đề ô nhiễm môi trường nước ở các kênh, rạch từ việc nuôi cá tra càng trở nên đáng quan tâm. Hơn nữa, người dân vẫn chưa có ý thức tốt cũng như các kiến thức cần thiết về việc quản lý và xử lý nguồn nước thải, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân và nguồn nước sử dụng cho tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp và các vùng lân cận. Ngoài ra, chất lượng nước bị ô nhiễm làm cho dịch bệnh xảy ra nhiều, hao hụt nhiều trong quá trình nuôi cá, chất lượng cá nuôi thấp gây khó khăn cho việc xuất khẩu, tác động đến hệ sinh thái vùng nuôi sẽ gây nên tình trạng nuôi cá tra không bền vững. Từ những lý do trên, việc đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường do nuôi cá tra ở ĐBSCL là cần thiết và đưa ra giải pháp làm giảm tác động môi trường, góp phần vào việc nuôi cá tra bền vững. B. NỘI DUNG c & d I. TIỀM NĂNG VÀ LỢI THẾ CỦA ĐBSCL: Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 39.747 km2, chiếm 12% diện tích cả nước, diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng 360.000 km2, chiếm 37% tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế của cả nước và hàng trăm đảo lớn nhỏ thuộc hai ngư trường trọng điểm là đông và tây Nam bộ. Toàn vùng có khoảng 750 km chiều dài bờ biển (chiếm khoảng 23% tổng chiều dài bờ biển toàn quốc) với 22 cửa sông, cửa lạch và hơn 800.000 ha bãi triều (70-80% là bãi triều cao). Mùa khô độ mặn nước biển ven bờ cao 20-30%0, mùa mưa 5-20%0, thâm nhập mặn theo các sông nhánh vào nội đồng nhiều nơi đến 40- 60km. Điều kiện như vậy đã tạo nên những vùng đất ngập nước qui mô lớn với bản chất lầy mặn và đa dạng về kiểu môi trường sinh thái (mặn, lợ, ngọt), cũng như các hệ thống canh tác tương đối đồng nhất, đôi khi không phân biệt được bằng địa giới hành chính, như: vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, bán đảo Cà Mau.... Điều kiện giao thoa mặn, lợ, ngọt cũng đã tạo nên một vùng sinh thái đặc thù, hiếm thấy trên thế giới, rất thuận lợi cho phát triển sản xuất thủy sản hàng hoá tập trung. Đặc biệt ưu thế vẫn là nuôi nước lợ, mà chủ yếu là nuôi tôm nước lợ và nuôi cá da trơn nước ngọt (cá tra, basa). Ngoài ra, còn có tiềm năng môi trường nuôi các loài nhuyễn thể, các loài thủy sản nước lợ khác, các loài thủy sản ưa nước ấm, các loài thủy sản có thể chịu được môi trường phèn đục như các loài cá đen (cá lóc, cá rô, cá da trơn, lươn…). Trên thực tế, nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở ĐBSCL đã trở thành một nghề truyền thống và không ngừng thay đổi. Theo tính toán, tổng diện tích có khả năng NTTS ở ĐBSCL hơn 1.200.000 ha, bằng gần 60% của cả nước. Trong đó, diện tích có khả năng NTTS vùng triều khoảng 750.300 ha, chiếm trên 26% tổng diện tích đất tự nhiên của 8 tỉnh ven biển của vùng và chiếm 74% tổng diện tích có khả năng NTTS trên vùng triều toàn quốc. Vùng bán đảo Cà Mau có diện tích tiềm năng cho phát triển NTTS mặn lợ rất lớn (trên 630.000 ha), Khu vực ven sông Hậu và sông Tiền có diện tích vùng triều ít hơn (trên 123.000 ha). Diện tích có khả năng nuôi thuỷ sản nước ngọt cũng rất phong phú với trên 500.000 ha được xác định là có điều kiện rất thuận lợi và phân bố chủ yếu ở các tỉnh: Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Vĩnh Long. II. HIỆN TRẠNG NUÔI CÁ TRA Ở ĐBSCL VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN: 1. Hiện trạng: Hình 1. Nuôi cá tra ở Cái Bè Do có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho hoạt động nuôi cá tra trên các ao ven sông, trên cồn (dễ dàng trong hoạt động lấy nước), cộng với kỹ thuật nuôi không quá khó nên nghề nuôi cá tra khu vực này phát triển mạnh nhất là trong vài năm trở lại đây. Hầu hết các tỉnh có lợi thế cho hoạt động nuôi cá tra ao thâm canh đều có quy hoạch vùng nuôi cá tra. Và nhất là từ khi thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, dần dần nông dân chuyển những vùng đất trồng lúa, màu không có hiệu quả sang đào ao nuôi cá, đặc biệt là nuôi cá tra. Đầu năm 2007 do giá cá tra tăng cao, người dân thu được nhiều lợi nhuận thì phong trào đào ao nuôi cá tra phát triển rất mạnh, nhiều người nuôi cũ mở rộng diện tích và kích thích người nuôi mới nhập cuộc. Năm 2003 diện tích nuôi cá tra của ĐBSCL là 2.792 ha đến 2007 lên tới 5.429 ha; tốc độ tăng trưởng bình quân là 18,1%/năm. Cần Thơ là địa phương có diện tích nuôi cá tra cao nhất trong vùng (1.569 ha, chiếm 29%); kế đến là An Giang (1.393 ha, chiếm 25,7%); Đồng Tháp (1.272 ha, chiếm 23,4%). Chỉ riêng 3 tỉnh trên đã chiếm khoảng 78% diện tích nuôi cá tra toàn vùng. Hiện trạng sản xuất này chứng tỏ thủy sản đúng là thế mạnh của ĐBSCL chỉ sau cây lúa. Do đó, sắp tới Hiệp hội nghề cá và ban ngành liên quan cùng ngư dân tiếp tục phát triển nghề nuôi cá tra theo hướng ổn định và bền vững hơn nhằm tăng thu nhập, giải quyết lao động và góp phần năng cao đời sống nông thôn. Bên cạnh đó, diện tích nuôi cá tra tăng nhanh nên chất thải từ ao nuôi ca tra thải ra kinh rạch cũng tăng lên. Chính điều này đã làm cho chất lượng nước ở các con kênh và sông ngày càng xấu đi và có nguy cơ bị ô nhiễm. Khi nguồn nước bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân xung quanh. Hình 2. Diễn biến diện tích và sản lượng cá tra ở vùng ĐBSCL giai đoạn 1997-T7/2008 và quy hoạch đến năm 2020 2. Định hướng phát triển trong tương lai: Theo quy hoạch phát triển vừa được Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn phê duyệt thì tốc độ tăng trưởng diện tích trong vùng trong các năm tới trung bình khoảng 4,2%/năm. Cụ thể đến năm 2010 diện tích nuôi cá tra của vùng đạt 8.600 ha tập trung chủ yếu ở Đồng Tháp là 2.300 ha, An Giang với 2.100ha. Đến năm 2015 diện tích nuôi cá tra của vùng đạt 11.000ha và đến năm 2020 là 13.000ha. Như vậy, từ quy hoạch trên cho thấy diện tích nuôi cá tra sẽ tăng dần trong thời gian tới và sản lượng nuôi đến năm 2020 sẽ có thể đạt 1,8 triệu tấn. Với sản lượng như trên áp lực đối với môi trường ngày càng cao đặc biệt trong điều kiện diện tích tăng trong thời gian tới chủ yếu sẽ nằm trong khu vực khó khăn hơn về chất lượng nguồn nước cấp và khả năng tiêu thoát kém. III. VẤN ĐỀ Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC TRONG CÁC AO NUÔI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG NÀY: 1. Vấn đề ô nhiễm nguồn nước trong nuôi cá tra: Hình 3. Nước thải từ ao nuôi cá tra Các công nghệ về sản xuất con giống, thức ăn, quy trình nuôi thủy sản thâm canh ngày càng hoàn thiện, quy mô nuôi ngày càng tăng. Hoạt động này sẽ gây ra áp lực tác động tiêu cực đến môi trường. Nuôi thâm canh được coi như một quá trình cuối đường ống bao gồm một lượng lớn các vật liệu được đưa vào sau đó chỉ một lượng nhỏ vật nuôi được thu hoạch phần còn lại được coi như là chất thải thải ra môi trường bên ngoài. Thức ăn công nghiệp có thành phần dinh dưỡng cao đặc biệt là giàu protein, phốt pho sẽ là nguồn tác động mạnh mẽ đến môi trường. Theo tính toán chỉ khoảng 20% lượng thức ăn khô được chuyển vào thành trọng lượng cá còn lại là do dư thừa, bài tiết và đặc biệt được thải ra theo con đường tiêu hóa. Các nghiên cứu của Boyd, 1985, Gross và cộng sự, 1998 cho thấy cá da trơn chỉ hấp thu được 27 -30% Nitrogen, 16 – 30% photpho và khoảng 25% chất hữu cơ đưa vào từ thức ăn. Các nghiên cứu của Yang, 2004 khi thử nghiệm nuôi cá da trơn trong 90 ngày cho thấy cá chỉ hấp thu được khoảng 37% hàm lượng N và 45% hàm lượng P trong thức ăn cho vào ao nuôi như vậy, để đạt được sản lượng trung bình khoảng 150 tấn cá/ha với hệ số chuyển đổi thức ăn FRC là 1,6 cần sử dụng lượng thức ăn tối thiểu là 240 tấn và lượng chất hữu cơ thải ra môi trường là 192 tấn. Bảng 1: Ước lượng chất thải phát sinh từ 1ha nuôi cá tra Cách tính Khối lượng (tấn) Sản lượng cá 150 Thức ăn sử dụng Thức ăn chứa 5%N, 1,2%P, FCR=1,6 240 Chất thải phát sinh Bằng 80% thức ăn khô 192 Chất thải dạng N 37% N được cá hấp thu 7,6 Chất thải dạng P 45% P được cá hấp thu 2,88 Chất thải dạng BOD5 0,22 kg BOD5/kg thức ăn (Wimberly, 1990) 52 Khả năng phú dưỡng của tảo Bằng 2- 3 lần lượng thức ăn sử dụng 480-7420 Như vậy, theo quy hoạch phát triển đến năm 2020 sản lượng cá tra nuôi trồng tại ĐBSCL sẽ là 1.850.000 tấn thì lượng chất thải tương ứng là 2.368.000 tấn chất hữu cơ trong đó có 93.240 tấn N; 19.536 tấn P và 651.200 tấn BOD5. Con số trên là một giá trị khổng lồ đối với các vùng nuôi tập trung, với lượng thải trên nếu không có giải pháp hạn chế sẽ là hiểm họa đối với môi trường nước vùng ĐBSCL nói chung và đặc biệt nghiêm trọng đối với các vùng nuôi cá tra. Bảng 2: Tổng hợp tính chất nước trong ao nuôi cá Tra tại Tiền Giang. Thông số Điểm quan trắc Ao 2 tháng Ao 4 tháng Ao 6 tháng Kênh dẫn 1 Kênh dẫn 2 Total N 6,29 19,36 17,21 3,25 6,53 TOC 14,91 29,25 27,34 9,87 10,28 N-NH4+ 4,46 14,52 13,84 0,71 1,17 TSS 134 178 182 217 164,8 TDN 5,06 15,96 14,75 - - DOC 7,00 9,44 9,57 - - Nguồn : TT nghiên cứu môi trường và xử lý nước tháng 6 năm 2008 Như vậy, từ bảng cho thấy mức độ ô nhiễm trong nguồn nước là khá lớn đặc biệt là chất ô nhiễm dạng N. Có tới 80 – 82% hàm lượng tổng N ở dạng hòa tan trong đó 88 – 91%  hòa tan ở dưới dạng NH4+.  Xét giá trị hàm lượng các bon cho thấy 32 – 46 % các bon ở dạng hòa tan trong nước và 54 – 68% ở dạng lơ lửng. Bảng 3: Tổng hợp lượng nước thải phát sinh trong nuôi thủy sản Hình thức nuôi Sản lượng  (Tấn/ha) Lượng nước thải  (m3/tấn sản phẩm) Lượng nước thải (m3/ha) Nuôi cá da trơn công nghiệp tại Trung Quốc (catfish) 100-200 50-200 5.000 – 40.000 Nuôi tôm công nghiệp tại Taiwan 12,6-27,4 29.000-43.000 365.400-1.178.200 Nuôi cá (Salmonids) trong bể tại Anh - 252.000 Nguồn : Như vậy với thải lượng lớn và nồng độ các chất ô nhiễm khá cao như trên chất thải từ các ao nuôi cá tra đã và đang tác động rất lớn đến môi trường nước ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đến nghề nuôi mà còn tác động đến các hoạt động sinh hoạt của người dân trong vùng. Lấy cách tính khác thông thường hàm lượng N tổng số trong nước thải từ các ao nuôi cá tra vào các tháng cuối là khoảng 14 mg/l, nêu lấy trung bình lượng nước cần thay cho các ao nuôi vào khoảng 15%/ngày, thời gian thay nước trong 1 vụ là 150 ngày thì tổng hàm lượng Nitơ thải ra môi trường sẽ vào khoảng 21 kg/ngày = 2.250kg/vụ. Lượng đạm này đủ dùng cho 15ha lúa sinh trưởng và phát triển. Ngoài ra còn do người dân nuôi tự phát khi giá cá tra tăng đột biến thì người dân đổ xô nhau nuôi cá làm diện tích tăng ồ ạt và đã phá vỡ quy hoạch. Điều này làm ảnh hưởng đến môi trường nghiêm trọng, nước thải cá tra và bùn ở đáy ao không được xử lý ảnh hưởng đến nguồn nước và sinh hoạt người dân. Bên cạnh đó, tình hình ô nhiễm môi trường ở những vùng nuôi cá tra ở các tỉnh có diện tích ao nuôi lớn như: Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp đã đến mức báo động. − Tại Đồng Tháp, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp đã tiến hành đo đạc khảo sát môi trường, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường nước. Kết quả quan trắc 8 điểm nước mặt khu vực nuôi cá và 14 điểm nước mặt khu vực các ao nuôi cá cho thấy phần lớn nước ở các ao nuôi đều có BOD từ 32-84 mg/l (vượt tiêu chuẩn 8-12 lần), COD từ 35-96 mg/l (vượt tiêu chuẩn 5-10 lần)... Cũng theo khảo sát (trên khu vực sông Tiền) chất lượng nước mặt ở khu vực nuôi cá có sự gia tăng ô nhiễm cao hơn so với khu vực không nuôi cá. Nước sông khu vực nuôi cá qua khảo sát đều có BOD từ 29-46 mg/l (vượt tiêu chuẩn 7-12 lần), COD từ 44-80 mg/l (vượt tiêu chuẩn 4,5-8 lần), lượng oxy hòa tan (DO) từ 3,4-4,8 mg/l... − Tại Tiền Giang số liệu thống kê cho thấy mức độ ô nhiễm của vùng nuôi cá tra trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là khá lớn, đặc biệt là chất ô nhiễm dạng N. Có tới 80-82% hàm lượng N hòa tan dưới dạng NH4+. Xét giá trị hàm lượng Cácbon (C) cho thấy 32-46% hàm lượng C ở dạng hòa tan trong nước và 54-68% ở dạng lơ lửng. − Tình hình ô nhiễm môi trường ở những vùng nuôi cá tra ở huyện Châu Phú (An Giang) được thể hiện qua kết quả quan trắc nước huyện Châu Phú (Bảng 1). Bảng 4. Kết quả quan trắc nước ở huyện Châu Phú đợt 1 (tháng 2) và đợt 6 (tháng 11) năm 2006 Chỉ tiêu pH DO BOD TSS NH3 COD Coliforms Đơn vị tính mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l Tháng 2/2006 6,5 5,1 16 34 2,29 48 23x103 Tháng 11/2006 6,9 4,2 30 80 8 78 0,36x103 TCVN 6774:2000 6,5 - 8,5 5 < 10 ≤ 100 ≤ 0,93 TCVN 5942 :1995 6 - 8,5 ≥ 6 < 4 20 0,05 < 10 5x103 Ghi chú: TCVN 6774 :2000 : Tiêu chuẩn chất lượng nước mặt. TCVN 5942 :1995 : Tiêu chuẩn chất lượng nước ngọt bảo vệ đời sống thuỷ sinh. Qua số liệu bảng 1 về môi trường nước ở huyện Châu Phú cho thấy chỉ số BOD, COD, TSS, Coliforms đều vượt nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, tác động xấu đến sự sinh trưởng và phát triển của cá và ảnh hưởng đến chất lượng nước sinh hoạt của cộng đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do nước thải cá Tra được thải trực tiếp ra môi trường xung quanh không qua xử lý. 2. Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước: a. Đào ao nuôi cá không theo quy hoạch: Hình 4. Đào ao nuôi cá tra Do người dân ồ ạt đào ao không theo quy hoạch làm diện tích đào ao tăng lên ảnh hưởng đến môi trường đất, môi trường nước và các hệ sinh thái trong phát triển nuôi trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái và làm ô nhiễm môi trường. Theo Sở Tài Nguyên – Môi Trường thành phố Cần Thơ (2007) do quá trình nhiều ao được đào đã làm cho tầng phèn tiềm tàng trong lòng đất bị tác động bởi quá trình oxy hóa sẽ diễn ra và sự lan truyền phèn nhanh chóng làm giảm độ pH môi trường nước, gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, chất thải trong nuôi trồng thủy sản là bùn thải, các nguồn thức ăn dư thừa thối rửa bị phân hủy, các chất tồn dư của các loại vật tư sử dụng như vôi, hóa chất, các khoáng chất Ditomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần chứa H2S, NH3 là các sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ngập nước tạo thành cũng là các nguồn tác động gây ô nhiễm môi trường. b. Chính quyền địa phương chưa kiểm soát chặt chẽ diện tích nuôi: Do chính quyền địa phương chưa kiểm soát chặt chẽ diện tích nuôi, hệ thống xử lý nước thải và do thái độ của người dân không quan tâm đến việc xử lý nước thải và bùn đáy ao. Theo Hùng Anh (2007), trích lời Lý Thị Thanh Loan cho biết: Hiện nay ô nhiễm nguồn nước mặt do nuôi cá tra đang hết sức nghiêm trọng, những người nuôi cá tra đều không quan tâm đến việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải từ ao nuôi ca, mạnh ai nấy xả nguồn nước ô nhiễm này ra sông rạch. Sự phát triển ồ ạt của nghề nuôi cá tra và thái độ không quan tâm xử lý nước thải để bảo vệ môi trường của người nuôi cá sẽ làm các sông rạch mất khả năng tự làm sạch và ô nhiễm nghiêm trọng, trở thành những dòng sông chết do chất thải từ các ao cá tra. c. Ô nhiễm nguồn nước do thức ăn thừa trong quá trình nuôi: Hình 5. Thức ăn thừa là nguồn làm ô nhiễm nước Nguyên nhân thứ ba của ô nhiễm nguồn nước do nuôi cá tra là thức ăn thừa trong quá trình nuôi cá được đưa thẳng ra sông, rạch. Thực tế cho thấy, nuôi cá tra trong ao, hầm, chỉ có 17% thức ăn được cá hấp thụ, phần còn lại khỏang 83% hòa lẫn, lắng đọng trong môi trường nước trở thành chất hữu cơ bị phân hủy (Phạm Văn Mấy và ctv. 2007). Đây là nguồn chất thải nguy hiểm, là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự biến đổi màu của nguồn nước trên sông rạch. Ngoài ra, khi nước thải ra môi trường không xử lý thì sẽ làm giảm chất lượng nước, gây nạn phú dưỡng, giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật trong tự nhiên, bùn ao sau khi nạo vét nếu không xử lý sẽ ảnh hưởng đến môi trường đất trong khu vực như nhiễm phèn ảnh hưởng quá trình sản xuất canh tác của người dân (Phòng khuyến ngư, 2006). Theo Bộ Tài Nguyên và Môi Trường (2007), hiện có 2 loài cá Leo và cá Kết đang thị trường ưa chuộng, để nuôi kết hợp với cá tra để làm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường nước trong ao nuôi cá. Mô hình nuôi kết hợp này đã xử lý được khâu thức ăn của cá tra dư thừa chìm xuống đáy ao gây ô nhiễm nguồn nước trong ao và khi đưa ra bên ngoài làm cho môi trường xung quanh ô nhiễm. d. Hệ thống ao nuôi chưa đạt chuẩn: Hình 6. Quy trình nuôi cá tra đạt chuẩn Đa số những hộ nuôi cá tra hầm đều không xây dựng hệ thống ao lắng để xử lý nước trước khi cho vào ao nuôi và xử lý nước thải trước khi thả ra sông rạch, đó là nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước. Theo Tố Quyên (2007) trong tổng số 1.600 ha diện tích nuôi cá tra ở An Giang có đến 90% số ao chưa có hệ thống xử lý chất thải và để chất thải từ nuôi cá tra thải ra môi trường không bị ô nhiễm thì 3 ha nuôi cá tra thì phải có 1 ha làm bể lọc xử lý nước thải. Điều này chỉ có thể làm được đối với những hộ nuôi ở diện tích lớn và có điều kiện về kinh tế. Vì vậy, để phát huy lợi thế nuôi ca trá ở tỉnh An giang và huyện Châu Phú nói riêng phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu đảm bảo sự bền vững và an toàn của môi trường, các địa phương cần tập trung quy hoạch hợp lý diện tích nuôi. Trong đó đặc biệt chú ý xây dựng hệ thống xử lý nước thải trước khi đưa vào nuôi và xử lý triệt để nguồn nước thải, bùn đáy ao, đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, đảm bảo chất lượng con cá thương phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trong thời hội nhập. Đây chính là những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước, khi mà lượng chất thải vượt quá sức chứa của nguồn nước ở đây sẽ dẫn đến phá vỡ cân bằng sinh thái. Lúc đó, không chỉ thiệt hại cho chính người nuôi cá mà tác động xấu đến nguồn nước ngọt trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, nguồn nước sinh hoạt cho cư dân. IV. ẢNH HƯỞNG CỦA NGUỒN NƯỚC NUÔI CÁ TRA: 1. Tác động xấu đến môi trường: Nguồn tài nguyên nước ở những khu vực nuôi đang biến đổi cả về trạng thái và chất lượng… không những đe dọa đến phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và các hệ sinh thái gần khu vực nuôi (Phạm Đình Đôn.2007). Môi trường nước bị ô nhiễm trầm trọng ảnh hưởng đến người dân đặc biệt là người nghèo do hầu hết các ao nuôi không có hệ thống xử lý nước thải, phần lớn đều đổ ra kênh rạch ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân nơi đây. Theo ông Huỳnh Hồng Pha (hội viên chi hội Vĩnh Mỹ, Châu Đốc) cho biết: “Nước sông rạch, kênh mương tại những vùng nuôi cá tập trung đã bị biến màu. Người dân nghèo tại các khu vực đó không có nước sạch nên phải sử dụng nguồn nước đó đã có dấu hiệu mắc một số chứng bệnh về da”. Mặc khác, ô nhiễm nguồn nước còn ảnh hưởng trở lại đối với những người nuôi cá tra do những hộ nuôi trên nguồn nước thải nước trong ao nuôi cá tra mà không xử lý, hộ dưới nguồn nước bơm vào ao. Vì vậy khi một ao nuôi bị dịch bệnh thì các ao khác kéo theo cũng bị bệnh làm cho cá chết hàng loạt gây thiệt hại rất lớn cho người nuôi. Một khi con cá tra không nuôi được thì nguồn lợi thủy sản cũng mất dần, không nuôi thủy sản chẳng lẻ chuyển dịch cơ cấu cây trồng một lần nữa. Môi trường nước ô nhiễm làm cho tỉ lệ hao hụt trong quá trình nuôi ngày càng cao, từ 7 – 9% năm 2000 nay tăng lên 30 – 34% ( Tố Quyên. 2007). 2. Mặt tích cực: Nếu biết tận dụng tốt và xử lý triệt để về
Tài liệu liên quan