Sự thay đổi về việc tích luỹ năng lượng và việc sinh nhiệt của cơ thể cho thấy rằng khi năng lượng trong khẩu phần bị thiếu, sự có mặt của vi sinh vật đường tiêu hoá rất có lợi cho cơ thể do làm giảm hao tổn năng lượng, ngược lại khi năng lượng khẩu phần được cung cấp đầy đủ, hiệu quả sử dụng năng lượng giảm xuống do sự có mặt của các vi sinh vật này. Vì vậy, có thể kết luận rằng chính vi sinh vật đường tiêu hoá làm thay đổi quá trình trao đổi năng lượng và giảm hiệu quả sử dụng năng lượng của gia cầm (Muramatsu và CTV, 1994).
28 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 4267 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu dinh dưỡng của gia cầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
197
luỹ và sự phân chia năng lượng tích luỹ đó trong protein và mỡ
(MacLeod, 1990). Khi mức năng lượng ăn vào cao, khoảng 85%
năng lượng tích trong mỡ và 15% năng lượng dự trữ trong protein.
Khi mức năng lượng ăn vào thấp, một lượng mỡ cơ thể được huy
động trong khi protein được tích luỹ. Hệ số dự trữ năng lượng trong
protein và trong mỡ ước tính tương đương 0,66 và 0,86 (Boekholt và
CTV, 1994).
Sự thay đổi về việc tích luỹ năng lượng và việc sinh nhiệt của
cơ thể cho thấy rằng khi năng lượng trong khẩu phần bị thiếu, sự có
mặt của vi sinh vật đường tiêu hoá rất có lợi cho cơ thể do làm giảm
hao tổn năng lượng, ngược lại khi năng lượng khẩu phần được cung
cấp đầy đủ, hiệu quả sử dụng năng lượng giảm xuống do sự có mặt
của các vi sinh vật này. Vì vậy, có thể kết luận rằng chính vi sinh vật
đường tiêu hoá làm thay đổi quá trình trao đổi năng lượng và giảm
hiệu quả sử dụng năng lượng của gia cầm (Muramatsu và CTV,
1994).
* Nhu cầu năng lượng cho sản xuất trứng
Theo Singh (1988), nhu cầu năng lượng để sản xuất 1 quả trứng gà
Leghorn là 86 Kcal ME. Theo Nguyễn Mạnh Hùng và CTV (1994),
nhu cầu năng lượng để sản xuất 1 quả trứng là:
MEsxt =
(P x 1,6)
0,8
Trong đó: P - Khối lượng của trứng (gam); 1,6 - Giá trị năng lượng
của 1 gam trứng;
0,8 - Hiệu quả sử dụng năng lượng cho sản xuất trứng
6.4.1.3.3. Nhu cầu năng lượng tổng thể
* Nhu cầu năng lượng cho gà tăng trưởng
Theo Wu và Han (1982), nhu cầu năng lượng của gà thịt là:
198
(0-4 tuần tuổi) ME = 128,5 BW0,75 + 2,5 (W)
(5-10 tuần tuổi) ME = 128,5 BW0,75 + 3,8 (W)
Trong đó: BW là khối lượng cơ thể (kg); (W) là tăng trọng (gam).
Theo Larbier và Leelercq (1993), nhu cầu năng lượng trao đổi
cho gà broiler có thể tính theo công thức:
ME (Kcal/ngày) = 100 W
0,75
+ 14,4 (Pr) + 11,0 (Lip)
Trong đó:W là khối lượng cơ thể (kg)
(Pr) là số protein tăng (g/ngày); (Lip) là số mỡ tăng (g.ngày)
Theo Hoàng Văn Tiến (1995), nhu cầu năng lượng gà thịt là:
ME = [105 + 4,6(25 - T)]Pm
0,75
+ 10,4L + 14,0Pr
Trong đó: ME là số Kcal ME cần thiết/con/ngày
Pm là Khối lượng trung bình (kg)
L là lượng mỡ tích luỹ (g/ngày)
Pr là lượng protein tích luỹ (g/ngày)
T là nhiệt độ, nếu dưới 25oC
Trong trường hợp nhiệt độ cao hơn 25oC thì kết quả này sẽ
thay đổi ở độ mọc lông và lượng mỡ tích luỹ dưới da.
* Nhu cầu năng lượng cho gà đẻ trứng
Theo Nguyễn Mạnh Hùng (1994), nhu cầu năng lượng cho gà
có thể tính theo công thức: ME = 5 P + P(170 - 2,2T) + 2LE
Trong đó: ME là số Kcal ME/con/ngày; T là nhiệt độ môi trường (oC);P
là khối lượng gà (kg);
P là tăng trọng bình quân (g/ngày); L là tỷ lệ đẻ (%); E là khối lượng
trứng sản xuất ra (g).
Ví dụ, gà mái nặng 1,59 kg, tăng trọng hàng ngày 3 g, tỷ lệ đẻ 80%,
khối lượng trứng 62 g, nhiệt độ môi trường 26,7 oC, thì nhu cầu
năng lượng sẽ là:
ME = (5 x 3) + 1,59[170 - (2,2 x 26,7)] + (62 x 0,8 x 2) = 292
Kcal ME/con/ngày.
199
Theo Hoàng Văn Tiến (1995), có thể tính nhu cầu năng lượng
cho gà như sau:
Gà Leghorn: ME = (170 - 2,2T)Pm + 5(P) + 2E
Gà Rhode Island: ME = (140 - 2T)Pm + 5(P) + 2E
Trong đó: ME là số Kcal ME/con/ngày
T là nhiệt độ môi trường (oC)
Pm là khối lượng gà (kg)
(P) là tăng trọng bình quân (g/ngày)
E là khối lượng trứng sản xuất ra (g/ngày)
Công thức trên không tính đến sự khác nhau giữa các cá thể
về mức độ mọc lông và các hoạt động cơ bắp khi nuôi trong lồng
hay trên nền.
6.4.2. Protein và nhu cầu protein của gà
6.4.2.1. Đặc tính chung và vai trò sinh học của protein đối với cơ thể
gia súc
Protein là thành phần cấu trúc quan trọng nhất của cơ thể gia
súc, gia cầm. Protein có những đặc tính mà các chất hữu cơ khác
không có được. Những đặc tính này bảo đảm chức năng của protein
như chất biểu hiện của sự sống. Khác với lipit và gluxit, trong cấu
trúc của protein bao giờ cũng chứa nitơ (16%). Một số protein còn
chứa lượng nhỏ lưu huỳnh (S), đôi khi có chứa phốt pho (P) và một
số các nguyên tố vi lượng khác như sắt (Fe), kẽm (Zn), đồng (Cu),
mangan (Mn), ...
Trong cơ thể động vật nói chung và cơ thể gia cầm nói riêng,
protein không thể tổng hợp từ lipit hay gluxit mà phải lấy protein từ
thức ăn đưa vào hàng ngày với số lượng đẩy đủ và theo một tỷ lệ
thích hợp theo nhu cầu của cơ thể (McDonald, 1988; Singh, 1988;
Vũ Duy Giảng và CTV, 1995).
Đối với gia cầm, protein có rất nhiều chức năng và là thành
phần chính của xương, dây chằng, lông, da, các cơ quan và cơ. Do
200
protein được sử dụng cho duy trì, sinh trưởng và sản xuất nên nó
được thường xuyên đưa vào cơ thể. Nếu lượng protein ăn vào thấp
hơn nhu cầu thì độ sinh trưởng và điều kiện sống của các mô bào sẽ
bị ảnh hưởng, dẫn đến sự phát triển chậm các cơ quan cần thiết trong
cơ thể.
6.4.2.2. Nhu cầu về protein và axit amin của gà thịt
6.4.2.2.1. Nhu cầu về protein của gà thịt
Nhu cầu protein cho gà thịt bao gốm nhu cầu cho duy trì, cho tăng
trưởng và cho tổng hợp lông. Theo Singh (1988), nhu cầu protein
tổng thể cho gà thịt là:
Pr(g) =
0,0016 x KLCT(g) + (0,18 x TT(g) )+ (0,07 x KLCT x 0,82)
0,64
Trong đó: Pr(g) - Nhu cầu protein cần thiết (g/con/ngày);
KLCT - Khối lượng cơ thể (g);
TT - Tăng trọng (g/ngày);
0,0016 - Nhu cầu protein (g) cho duy trì 1 gam KLCT;
0,18 - Tỷ lệ protein trong thịt là 18%;
0,07 - Tỷ lệ lông gà so với KLCT là 7%;
0,82 - Tỷ lệ protein trong lông là 82%;
0,64 - Hiệu quả sử dụng protein của gà thịt.
Trong giai đoạn sinh trưởng, tỷ lệ protein và axit amin trong
khẩu phần của gà thịt cần được tăng lên. Nếu protein khẩu phần
giảm thì sức sinh trưởng và tích luỹ nitơ của gia cầm sẽ bị giảm mặc
dù hiệu quả sử dụng thức ăn có thể tăng (Shafey và McDonald,
1991). Do gà rất nhạy cảm với mức protein khẩu phần nên trong thời
kỳ sinh trưởng gà có thể ăn vào lượng protein tương ứng với nhu cầu
của chúng khi nuôi các khẩu phần tự chọn. (Shariatmadri và Forbes,
1993).
201
6.4.2.2.2. Nhu cầu về axit amin của gà thịt
Khả năng sinh trưởng của gia cầm liên quan mật thiết với
hàm lượng các axit amin không thay thế trong khẩu phần. Nếu các
axit amin không thay thế trong khẩu phần thấp, gà sẽ giảm tốc độ
sinh trưởng và hiệu quả chuyển đổi thức ăn.Với các khẩu phần cùng
lượng axit amin không thay thế, gà sẽ có cùng lượng axit amin ăn
vào mà không phải là cùng lượng năng lượng (Skinner và CTV,
1991). Khi gà được nuôi dưỡng cùng mức axit amin không thay thế
nhưng khác nhau về axit amin thay thế và năng lượng thì gà sẽ tiêu
tốn lượng thức ăn như nhau và tích luỹ lượng protein như nhau
(Summers và CTV, 1992). Như vậy, gà có thể ăn lượng thức ăn để
thoả mãn nhu cầu axit amin không thay thế mà không phải là nhu
cầu năng lượng (Parr và Summers, 1991).
Ví dụ, tăng lysine trong khẩu phần đã làm tăng đáng kể cả
khối lượng cơ thể và hệ số chuyển đổi thức ăn (Surisdiarto và
Farrell, 1991). Nhu cầu lysine tiêu hoá được xác định là không quá
1.01% đỗi với khẩu phần cho mức tăng trọng cao nhất và không quá
1.21% đối với khẩu phần cho hiệu quả chuyển đổi thức ăn tốt nhất
(Han và Baker, 1991). Ở một báo cáo sau đó, Han và Baker (1994)
đã khẳng định rằng nhu cầu lysine tiêu hoá cho sức tăng trọng tối đa
là 0.85% đối với gà trống và 0.78% đối với gà mái. Nhu cầu lysine
cho sự hiệu quả chuyển đổi thức ăn tốt nhất có cao hơn: 0.89% đối
với con trống và 0.85% đối với con mái.
Nhu cầu tổng số axit amin chứa lưu huỳnh tăng lên cùng với
tăng mức protein trong khẩu phần (Huyghebaert và CTV, 1994).
Chất lượng của thịt được cải thiện đáng kể khi tăng protein và các
axit amin chứa lưu huỳnh (Pack và Schutte, 1995; Schutte và Pack,
1995). Tuy nhiên, lượng axit amin chứa lưu huỳnh quá cao có thể
ảnh hưởng đến sự trao đổi chất hữu cơ của xương bởi vì các axit
amin chứa lưu huỳnh có thể đóng vai trò là nguyên nhân gây bệnh
mềm xương (Frankel, 1995). Nhu cầu tổng số axit amin chứa lưu
202
huỳnh từ 0.79 đến 0.86% đối với khẩu phần gà thịt và nhu cầu này
không bị ảnh hưởng bởi mức protein của khẩu phần (Kassim và
Suwanpradit, 1996).
Do nhu cầu tuyệt đối về axit amin rất biến động, phụ thuộc
vào các yếu tố giống, tính biệt, môi trường, quản lý, nuôi dưỡng, v.v.
nên xác định nhu cầu các axit amin trong khẩu phần của gà thịt dựa
vào tỷ lệ tương đối của các axit amin so với lysine, vì lysine thường
là axit amin giới hạn thứ nhất trong khẩu phần thức ăn của gà.
Cùng với các axit amin không thay thế, gia cầm cũng có nhu
cầu nitơ phi protein để tổng hợp các axit amin thay thế được. Do sự
sinh trưởng của gà đạt mức cao nhất ở những khẩu phần có tỷ lệ
protein thô cao, nên có thể cho rằng đó chỉ là nhu cầu về protein thô
thực chất. Thay vào đó, do hầu hết các khẩu phần đều chứa một
lượng nhất định các axit amin tổng hợp được nên gà thịt có thể có
nhu cầu các axit amin trong mạch peptid mà các axit amin tự do
không thể đảm bảo được (Surisdiarto and Farrell, 1991).
Bảng 6.1: Nhu cầu axit amin không thay thế cho gà thịt
(Larbier và Leelercq, 1992)
Axit amin Duy trì
(mg/kgP/ngày)
Tăng trƣởng
(g/100g TT)
Lyzin 82 1,49
Methionin 36 0,70
Cystin 24 0,46
Isolơxin 58 0,27
Tryptophan 10 0,27
Threonin 86 0,75
203
Nhu cầu các axit amin không thay thế so với lysine (NRC, 1994)
Axit
amin
Lysine Arginiê Threoniee Valine Methionine Cystine
% 100 110 74 82 38 43
6.4.2.3. Nhu cầu về protein và axit amin của gà mái đẻ
6.4.2.3.1. Nhu cầu protein của gà mái đẻ
* Nhu cầu protein cho duy trì
Protein rất cần thiết cho sự sống. Trao đổi protein xảy ra ngay
cả khi cơ thể động vật không nhận được protein từ thức ăn. Nhu cầu
protein cho duy trì sự sống được xác định từ giá trị trao đổi chất của
cơ thể và mối tương quan chặt chẽ với nhu cầu năng lượng cho quá
trình trao đổi cơ bản. Trung bình 1Kcal năng lượng trao đổi cơ bản
tạo ra được 2 mg N nội sinh trong nước tiểu (Bùi Đức Lũng, 1995).
Lượng N trong nước tiểu có liên quan chặt chẽ với khối lượng
cơ thể và nhu cầu protein cho duy trì. Theo Scott (Trích từ Bùi Thị
Oanh, 1996), cách tính protein cho duy trì như sau:
N nước tiểu (mg) = 201 x W0,75 ; Trong đó W là khối lượng cơ
thể (kg).
Lượng N thải qua phân bằng 50% lượng N thải theo nước tiểu
nên tổng lượng N thải ra khỏi cơ thể là 201 + 100 = 301 (mg).
Lượng protein cho duy trì (Prm) sẽ được tính theo công thức:
Prm =
301 x W
0,75
1000 x 0,55
x 6,25
Ví dụ, một con gà mái có khối lượng 1,8 kg thì lượng protein cần
thiết cho duy trì là:
Prm =
301 x 1,8
0,75
1000 x 0,55
x 6,25 = 5,3 g/ngày
204
Theo Oluyemi (1979), nhu cầu protein cho duy trì được tính
theo công thức:
Prm =
0,0016 x W (g)
0,55
Trong đó: Prm là protein cho duy trì (gam); W là khối lượng
cơ thể
0,0016 là nhu cầu protein (g) cho duy trì 1 g W
0,55 là hiệu quả sử dụng protein thức ăn
Như vậy, một gà mái năng 1,8 kg thì lượng protein cần cho
duy trì là:
Prm =
0,0016 x 18000
0,55
= 5,2 g/ngày
* Nhu cầu protein cho tăng trưởng
Sự phát triển của gà gắn liền với sự tích luỹ protein trong cơ
thể chúng. Sự tích luỹ xảy ra nhanh ở gia cầm non, sau đó giảm dần
theo lứa tuổi. Theo Bùi Đức Lũng (1995), nhu cầu protein cho tăng
trưởng của gà có thể tính theo công thức:
Prtt =
Wc - Wo
0,64
x 0,18
Trong đó: Prtt là nhu cầu protein cho tăng trưởng (gam)
Wo là khối lượng cơ thể lúc ban đầu
Wc là khối lượng cơ thể lúc kết thúc
0,18 là hàm lượng protein trong thịt
0,64 là hệ số sử dụng protein
* Nhu cầu protein cho sản xuất trứng
Bằng kết quả nghiên cứu, Ivy và Gleaves (1976) cho rằng nhu
cầu protein cho sản xuất trứng là 8,9 g/mái/ngày nếu gà đẻ 10% và
7,1 g/mái/ngày nếu gà đẻ 80%.
205
Protein chiếm 12% thành phần của trứng và hiệu quả sử dụng
protein cho tổng hợp trứng là 55%, gọi Wt là khối lượng trứng thì
nhu cầu protein để sản xuất một quả trứng (Prsx) là:
Prsx =
0,12 x Wt
0,55
Ví dụ, một quả trứng năng 56g
thì lượng protein cần thiết để
sản xuất quả trứng đó là:Prsx =
0,12 x 56
0,55
= 12,2 gam
Như vậy, nếu một con gà nặng 2,2 kg đẻ 45g trứng/ngày, tăng trọng
5 g/ngày thì tổng nhu cầu protein/con/ngày là:
Nhu cầu Pr =
0,0016 x 2200
+
0,18 x 5
+
0,12 x 45
= 17 g
0,55 0,64 0,55
Theo Nguyễn Mạnh Hùng và CTV (1994), có thể tính nhu
cầu protein hàng ngày cho gà mái đẻ trong các giai đoạn khác nhau
(bảng 6.2).
Bảng 6.2: Nhu cầu protein hàng ngày của gà mái Leghorn trong
3 giai đoạn đẻ
Nhu cầu protein để
Lƣợng protein
Giai
đoạn I
(g/ngày)
Giai
đoạn II
(g/ngày)
Giai
đoạn III
(g/ngày)
Đẻ 1 quả trứng 5,6 6,0 5,3**
Protein duy trì/ngày 3,0 3,0 3,0
Protein sinh trưởng/ngày 1,2 0 0
Protein phát triển lông/ngày 0,4 0,1 0,1
Tổng số 10,2 9,1 8,4
206
Hiệu suất sử dụng protein (%) 56,6 56,8 56,0
Nhu cầu protein hàng ngày (g) 18,0 16,0 15,0**
** Nhu cầu protein cho tỷ lệ đẻ trứng 85%
6.4.2.3.2. Nhu cầu về axit amin của gà mái đẻ
Axit amin là một trong những chất dinh dưỡng có tầm quan
trọng trong quá trình tăng trưởng, tạo sản phẩm trứng và nâng cao
hiệu quả sử dụng thức ăn. Xác định đúng nhu cầu axit amin cho từng
đối tượng gia cầm sẽ mang lại hiệu quả kinh tế trong nuôi dưỡng.
Bảng 6. 3: Nhu cầu axit amin không thay thế cho gà đẻ
(Larbier và Leelercq, 1992)
Axit amin
Duy trì
(mg/kgP/ngày)
SX trứng
(mg/1g trứng)
Lyzin 73 10,00
Methionin 31 4,77
Cystin 55 8,48
Isolơxin 67 7,97
Tryptophan 11 2.62
Threonin 32 6,9
Theo Thomas và Zuckerman (1986), nhu cầu lysine và
methionine cho gà mái đẻ được xác định bằng công thức:
Lysine (mg/mái/ngày) = 0,04P + 8(p) + 12,6E
Methionine (mg/mái/ngày) = 0,037P + 4,5(p) + 5,39E
Trong đó: P - Khối lượng cơ thể (g);
(p) - Tăng trọng bình quân (g/ngày);
E - Sản lượng trứng bình quân (g/ngày)
6.4.3. Nhu cầu các vitamin
Các vitamin rất cần thiết cho sức khoẻ, duy trì, sinh trưởng và
sinh sản của gia cầm và các loài động vật khác. Một số vitamin có
liên quan trực tiếp với sức khoẻ và bảo vệ tổ chức, nhiều vitamin
207
khác lại rất cần thiết cho trao đổi chất. Các vitamin luôn có mặt
trong các mô bào của cây trồng và vật nuôi và thông thường nhu cầu
rất nhỏ để bổ sung vào trong khẩu phần. Tuy nhiên, nhu cầu về một
loại vitamin nào đó phụ thuộc vào điều kiện môi trường, loại thức ăn
và giai đoạn sinh trưởng hay sản xuất của gia cầm. Loại trừ vitamin
tan trong dầu mỡ (A, D, K, E), các vitamin dự trữ trong cơ thể rất ít,
đặc biệt vitamin nhóm B và vitamin C, cho nên cần phải cung cấp
đầy đủ vitamin trong khẩu phần ăn hàng ngày nhằm thoả mãn nhu
cầu của gia cầm (Nowland, 1978).
Các vitamin hoà tan trong mỡ được dự trữ một lượng thích
hợp trong cơ thể và không bị bài tiết ra ngoài theo nước tiểu. Vì vậy
khi nào lượng vitamin đưa vào thiếu thì cơ thể có thể sử dụng nguồn
dự trữ.
Tuy nhiên, khi lượng vitamin đưa vào cơ thể nhiều, các
vitamin hoà tan trong mỡ có thể tích luỹ đạt đến mức tối đa. Các
vitamin hoà tan trong nước trong khẩu phần thực tế thường không đủ
cho nhu cầu của gia cầm nên cần được bổ sung thêm. Nếu không bổ
sung vitamin trong thời gian ngắn cũng có thể ảnh hưởng đến ssức
sống của gà thịt (Glavits và CTV, 1994). Gia cầm ăn khẩu phần thiếu
các vitamin, chỉ bổ sung vi khoáng có triệu chứng gầy yếu, giảm độ
nhạy cảm. Stress nhiệt và thiếu vitamin trong khẩu phần ảnh hưởng
xấu đến sức sống và tính miễn dịch của gà thịt (Deyhim và ctv,
1994).
Bảng 6.4: Nhu cầu vitamin tính cho 1 kg thức ăn hỗn hợp của
gia cầm (NRC, 1994)
Vitamin ĐVT Gà con
Gà sinh
trưởng
Gà đẻ
thương
phẩm
Gà đẻ
giống
Vitamin A IU 11000 6600 8800 11000
Vitamin D3 IU 2200 2200 2200 2200
Vitamin E IU 11 8,8 - 16,5
208
Vitamin K mg 2,2 2,2 2,2 2,2
Vitamin B1 mg 2,2 2,2 2,2 2,2
Vitamin B2 mg 4,4 4,4 4,4 5,5
Axit
pantotenic
mg
14,3 13,2 5,5 16,5
Axit
nicotinic
mg
33 33 26,4 33
Piridoxin mg 4,4 3,3 3,3 4,4
Biotin B8 mg 0,132 0,11 0,11 0,176
Axit folic
B9
mg
0,132 0,396 0,396 0,88
Cholin mg 1320 990 1100 1100
Vitamin
B12
mg
0,0099 0,0055 0,0022 0,011
Axit
linoleic
%
1,2 0,8 1,4 1,4
6.4.2.4. Nhu cầu khoáng
Khoáng rất cần thiết đối với gia cầm và tuỳ theo nhu cầu đối
với cơ thể mà khoáng được chia làm hai loại là các nguyên tố đa
lượng và các nguyên tố vi lượng. Gia cầm cần khoáng cho các hoạt
động sống vì vậy thiếu khoáng thì gia cầm giảm sinh trưởng, và
trong trường hợp thiếu nghiêm trọng gia cầm sẽ giảm sức khoẻ và
sức kháng bệnh (Nowland, 1978). Khẩu phần thiếu các nguyên tố đa
lượng hoặc vi lượng đều làm giảm khả năng tăng trọng, lượng thức
ăn ăn vào và hệ số chuyển đổi thức ăn của gia cầm. Chúng đồng thời
làm giảm lượng canxi xương, khoáng tổng số của xương nhưng làm
tăng lượng phốt pho xương (Southern và CTV, 1994).
Việc thiếu canxi và phốt pho sẽ được khắc phục nếu bổ sung
một lượng thức ăn bột thịt và xương vào khẩu phần. Tuy nhiên, mức
canxi trong khẩu phần cao sẽ làm giảm khả năng sinh trưởng và hiệu
209
quả sử dụng thức ăn (Shafey and McDonald, 1991) và mức phốt pho
trong khẩu phần cao sẽ làm tăng hiện tượng yếu xương (Nelson và
CTV, 1990). Ảnh hưởng của natri đến sự sinh trưởng của gia cầm
cúng đã được nghiên cứu, nhiều báo cáo cho rằng sự sinh trưởng của
gia cầm bị giảm đáng kể khi khẩu phần nuôi thiếu natri.
Bảng 6. 5: Nhu cầu chất khoáng tính trong 1 kg thức ăn hỗn hợp
của gia cầm
(NRC, 1984)
Loại
gia
cầm
Ca
(%)
P
(%)
NaCl
(%)
Fe
(mg)
Cu
(mg)
I2
(mg)
Mg
(mg)
Mn
(mg)
Se
(mg)
Zn
(mg)
Gà
con 0 -
8 tuần
0,9 0,7 0,4 80 4 0,35 600 55 0,1 40
Gà
sinh
trưởng
0,6 0,4 0,4 40 3 0,35 400 25 0,1 35
Gà đẻ
thương
phẩm
3,25 0,5 0,4 50 3 0,30 500 25 0,1 50
Gà đẻ
trứng
2,75 0,5 0,4 80 4 0,30 500 33 0,1 65
6.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến nhu cầu dinh dƣỡng của gia
cầm
6.5.1. Ảnh hưởng của di truyền
Khối lượng cơ thể, tốc độ sinh trưởng và năng suất sản phẩm
của gia súc và gia cầm rất khác nhau do khả năng tiêu hoá, hấp thu
cũng như quá trình trao đổi chất của chúng khác nhau (N.R.C, 1984;
Moral và Bilgilki, 1990; Han và Baker, 1993). Tuỳ theo hướng sản
210
xuất mà nhu cầu về các chất dinh dưỡng cho duy trì, sinh trưởng và
sản xuất khác nhau. Vì dụ, nhu cầu năng lượng cho duy trì của gà
leghorn thấp hơn 36% so với gà Broiler khi chúng ở cùng độ tuổi và
giới tính (Reid và Maiorino, 1980). Giống gà nhẹ cân tiêu thụ ít thức
ăn và ít năng lượng hơn so với giống gà nặng cân. Gà có tốc độ tăng
trọng cao tiêu thụ nhiều thức ăn hơn so với gà có tốc độ tăng trọng
vừa. Tuy nhiên tăng trọng càng nhanh thì hiệu quả sử dụng thức ăn
càng tốt bởi vì phần thức ăn dành cho tăng trọng nhiều hơn.
Các giống gà khác nhau có phản ứng khác nhau với mức
protein và axit amin trong khẩu phần. Gà nặng cân yêu cầu về số
lượng axit amin nhiều hơn so với gà nhẹ cân. Nếu tính theo tỷ lệ %
trong khẩu phần thì không có sự sai khác nhau nhiều, bù vào đó gà
nặng cân ăn lượng thức ăn nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu về số
lượng (Baker, 1993).
Hệ số tương quan giữa khối lượng cơ thể với lượng thức ăn
tiêu thụ tương đối cao (r = 0,5) và hệ số tương quan giữa khả năng
tăng trọng với lượng thức ăn ăn vào rất cao (r = 0,9). Còn hệ số
tương quan giữa sinh trưởng và chuyển hoá thức ăn lại có giá trị âm
(r = -0,2 đến -0,8) (Chambers và CTV, 1984 - dẫn theo Trần Long,
1994).
Như vậy, gà có khối lượng cơ thể càng lớn, mức tiêu thụ thức
ăn càng nhiều; gà có tốc độ tăng trọng càng cao, đòi hỏi lượng thức
ăn ăn vào càng lớn; đồng thời gà càng lớn chỉ số tiêu tốn thức ăn
càng cao.
6.5.2. Ảnh hưởng của tính biệt
Quá trình trao đổi chất của gà trống và gà mái khác nhau. Con
trống luôn có hệ số trao đổi chất cao hơn con mái (Singh, 1988). Hệ
số tích luỹ năng lượng so với mức ăn vào của gà Plymouth Rock lúc
1 ngày tuổi của con trống là 46,71% còn của mái là 40,60%