Tóm tắt. Murakami Haruki là nhà văn hậu hiện đại đã sử dụng tính hỗn độn như là nền
tảng tự sự trong truyện ngắn. Ông có thể kể một câu chuyện dung dị, một câu chuyện hoang
đường, thậm chí là truyện thực hư lẫn lộn, nhưng không bao giờ ông né tránh sự hỗn độn.
Hỗn độn đã trở thành nguyên tắc nhìn đời, cách ứng xử với nghệ thuật và quan trọng hơn
là cách để nghệ thuật đến với con người, giúp họ nhận thức thế giới ở chiều sâu vốn có của
nó. Tự sự ngôi thứ nhất của Murakami đã phát huy thế mạnh trong việc hỗn độn hóa nghĩa
và cách tiếp cận văn bản từ phía người đọc.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách kể “hỗn độn” trong truyện ngắn Murakami Haruki, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0076
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 10, pp. 3-10
This paper is available online at
CÁCH KỂ “HỖN ĐỘN” TRONG TRUYỆN NGẮN MURAKAMI HARUKI
Đào Thị Thu Hằng1 và Hoàng Thị Mỵ2
1Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2Sở Giáo dục Đào tạo Hà Nội
Tóm tắt. Murakami Haruki là nhà văn hậu hiện đại đã sử dụng tính hỗn độn như là nền
tảng tự sự trong truyện ngắn. Ông có thể kể một câu chuyện dung dị, một câu chuyện hoang
đường, thậm chí là truyện thực hư lẫn lộn, nhưng không bao giờ ông né tránh sự hỗn độn.
Hỗn độn đã trở thành nguyên tắc nhìn đời, cách ứng xử với nghệ thuật và quan trọng hơn
là cách để nghệ thuật đến với con người, giúp họ nhận thức thế giới ở chiều sâu vốn có của
nó. Tự sự ngôi thứ nhất của Murakami đã phát huy thế mạnh trong việc hỗn độn hóa nghĩa
và cách tiếp cận văn bản từ phía người đọc.
Từ khóa:Murakami Haruki, cách kể hỗn độn, truyện ngắn, chủ nghĩa hậu hiện đại.
1. Mở đầu
“Hỗn độn” (Chaos) là một trong những phạm trù triết mĩ của chủ nghĩa hậu hiện đại. Lê
Huy Bắc, người đầu tiên áp dụng khái niệm này trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam nêu định
nghĩa: “Hỗn độn ở đây được hiểu theo nghĩa cái gì đó mất trật tự, không theo một quy tắc nào và
là một sự không thống nhất, một tổ hợp của nhiều dị biệt mà không chịu bất kì phán xét từ một dị
biệt nào” [1;232]. Như thế, hỗn độn là khởi nguyên của vũ trụ và cả nhân sinh, thoạt kì thuỷ thì
tồn tại không theo một trật tự và một nề nếp nào cả. Về sau do sự “trục lợi” cá nhân hoặc của một
nhóm đặc quyền nào đó mà trật tự dần lấn át hỗn độn, tạo cho xã hội một “lề lối” mà nếu ai đó vi
phạm thì người đó bị xem là xấu xa, phản động, thậm chí là tâm thần. Xã hội được thiết lập trên
trật tự. Từ thời cổ đại đến nửa đầu thế kỉ hai mươi, đa phần nhân loại sống trong trật tự, nhưng kể
từ khi Giải cấu trúc ra đời, khi nhân loại bước sang kỉ nguyên hậu hiện đại, thì trật tự xã hội đã bị
lung lay dữ dội, dẫn đến nguy cơ hỗn độn hoá thế tục trên diện rộng. Các nhà hậu hiện đại nắm
được hiện tượng này nên đã đưa vào tác phẩm như là sự cảnh báo về sự sụp đổ nhân sinh.
Thế kỉ XXI tiếp nối đà phát triển của thế kỉ trước với những thành tựu khoa học kĩ thuật kì
vĩ. Sự phổ biến của máy vi tính, mạng xã hội, truyền thông không dây, vũ khí hoá học, sinh học,
lade,. . . cùng những đại sự kiện xã hội như: bức tường Berlin bị phá bỏ (vào thế kỉ trước), hạt của
Chúa, sự chuyển hướng toàn cầu của các thể chế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. . . đã tạo
nên sự hỗn độn và khiến con người đánh mất niềm tin vào nhiều giá trị từng được tôn thờ. Xã hội
ấy tạo nên những con người cô đơn, lạc lõng. Họ xa lạ với nhiều điều ngỡ như bình thường trong
cuộc sống. Họ trở thành người thừa, sống cuộc sống khác lạ với đám đông ồn ào náo nhiệt của thời
đại kim tiền và dục vọng quyền lực. Vì lẽ đó, đọc tác phẩm của những nhà văn hậu hiện đại, chúng
Ngày nhận bài: 15/5/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2016
Liên hệ: Đào Thị Thu Hằng, e-mail: daothuhang17@gmail.com/ hoangmy0311@gmail.com
3
Đào Thị Thu Hằng và Hoàng Thị Mỵ
ta luôn thấy xuất hiện sự hỗn độn này. Bài viết này của chúng tôi nhằm nghiên cứu một trường hợp
riêng biệt, về cách kể “hỗn độn” trong truyện ngắn của Murakami Haruki.
2. Nội dung nghiên cứu
Sự hỗn độn trước hết thể hiện trong cách kể. Các ngôi kể truyền thống, thứ nhất và thứ ba
bị vi phạm nghiêm trọng trong sáng tác của Murakami, Paul Auster hay Orhan Pamuk. . . Ở đó
người kể xưng “tôi”, chốc chốc lại biến đổi sang ngôi thứ ba với điểm nhìn khách quan bên ngoài,
thậm chí điểm nhìn đó còn được trao cho một nhân vật nào đó trong truyện, khiến cho số lượng
người kể (đồng nghĩa với người chứng) không ngừng tăng thêm. Việc làm này cốt để khẳng định
với người đọc rằng, nhà văn đã nỗ lực tối đa việc khách quan hoá điểm nhìn và giọng điệu. Nhưng
vấn đề không đơn giản như vậy. Dường như mỗi người kể đều có ý thức về tiếng nói của mình. Họ
đòi sự bình đẳng và đòi có nhiều tiếng nói cùng hướng và ngược hướng về các sự vật hiện tượng
đang xảy ra. Biến thể dễ thấy của cảm quan hỗn độn này chính là sự mịt mùng không lối thoát của
cái thế giới vô thức đầy vướng mắc của con người trong nhiều tác phẩm của Murakami. Nét tâm lí
của Naoko hay Kizuki (trong Rừng Nauy) chẳng chịt tựa rừng thẳm. Nó hút vào mình mọi chuyển
động và sức sống của con người, khiến cuộc sống của họ như thể đang nhích dần đến cái đích của
sự sống là cõi tối của cái chết tựa rừng thẳm, cái nơi chốn họ chẳng muốn nhưng chẳng thể nào
khác.
Thêm nữa, nhãn quan hỗn độn này còn được thể hiện ở chính mĩ học tiếp nhận. Nếu người
đọc không chấp nhận cái sự kể hỗn độn, phi mạch lạc, tối nghĩa,. . . thì tất yếu tác phẩm đó sẽ
không tồn tại. Ở đây có sự hô ứng giữa người kể và người đọc. Người kể kể một câu chuyện theo
cách chưa từng có trước đó, người đọc háo hức với cái sự kể không giống ai đó, thế là đã hợp thành
một thể thống nhất: cái nhà văn tâm đắc cũng được người đọc tâm đắc, cái nhà văn muốn được
thấu hiểu thì người đọc sẽ thấu hiểu. Trong Đốt nhà kho, Murakami kể câu chuyện nhân vật tuyên
bố đốt một cái nhà kho, nhưng cuối cùng chẳng có nhà kho nào bị đốt, thế mà với nhân vật muốn
đốt, cái nhà kho đó đã cháy rồi. Đây quả là sự thách đố trí tuệ lẫn trí tưởng tượng. Có lẽ để hiểu
lối kể hỗn độn này người đọc phải vận dụng những kiến thức bên dưới câu chữ rằng cái chuyện
được kể không quan trọng bằng sự chiêm nghiệm về chuyện kể đó. Nhưng nếu thế thì biết cái gì là
chính xác? Sẽ chẳng có gì là chính xác như những gì tác giả muốn nói. Do vậy câu chuyện không
ngừng mở lối mê lộ, đưa người đọc vào nhiều khúc quanh ngả rẽ, thậm chí là ngõ cụt để cốt phô
bày, cuộc sống về bàn chất vốn dĩ có phần là thế, chẳng thể nào khác, nọi sự khác chỉ là sản phẩm
của trí tưởng tượng mà thôi.
Cuối cùng hỗn độn là cách nhà văn nhìn nhận cuộc sống. Đương nhiên, nhà văn có thể
chọn lối kể có lớp lang, trật tự về cuộc sống. Nhưng đó là cách các nhà cổ điển và hiện đại đã làm.
Tin và hướng về “trật tự”, những nhà văn đó cho rằng cuộc sống có trật tự và nhiệm vụ của họ là
nói về và bảo vệ cái trật tự đó. Các nhà hậu hiện đại lại cho rằng xã hội tồn tại trên nguyên tắc
“phi trật tự”. Nhờ có phi trật tự mà mới có những tiếng nói khác, nền tảng của sự dân chủ, bình
đẳng. Chỉ khi nhà văn viết về cái hỗn độn thì nhà văn đó mới có thể đạt được phần nào tinh thần
dân chủ. Cái hỗn độn luôn tương phản với trật tự. Trật tự không làm cho hỗn độn tốt hơn mà chính
hỗn độn mới nhắc nhớ trật tự về một trật tự tối ưu hơn cho con người và xã hội. Cái nhìn hỗn độn
là cái nhìn từ bóng tối, cái nhìn nghịch chiều với ánh sáng. Cái nhìn từ đổ vỡ, đau đớn, bi đát,. . .
chứ không nhìn từ cảm quan ánh sáng, nơi con người đầy ắp niềm tin, tự tin có thể làm tất thảy và
hạnh phúc sẽ luôn chờ đón bất kì ai. . . Với các nhà hậu hiện đại, đấy là một ảo tưởng khổng lồ.
Có hai cách chủ yếu để biểu thị hỗn độn: một là “hỗn độn bề mặt” theo kiểu “ông nói gà
4
Cách kể “hỗn độn” trong truyện ngắn Murakami Haruki
bà nói vịt” mà các nhà Kịch phi lí đã từng làm, có nghĩa câu chữ, chủ đề truyện cứ lộn xộn, đan
bện nhau không theo một logic mạch lạc nào. Và hai là sự “hỗn độn chìm ẩn”, cái ba động ẩn bên
dưới câu chữ, đây chính là sự hỗn độn nghĩa và tư tưởng truyện. Bằng cách dẫn dắt nào đó, người
kể đưa người đọc vào mê cung nghĩa, chọn nghĩa nào cũng có thể. Cả hai cách hỗn độn đều chính
là đặc thù của tư duy hậu hiện đại. Sự giải cấu trúc diễn ra thường trực trong và ngoài, bên dưới
và bên trên, vấn đề nan giải sẽ đọng lại rất lâu ngay cả khi câu chữ kết thúc. Lối trần thuật sau
này được ghi nhận ở khuynh hướng tối giản (minimalism) mà Murakami Haruki cũng được xem
là một môn đồ.
Trong truyện Khu phố của cô, đàn cừu của cô, người kể tạo nên hai mảng không gian
chẳng liên quan gì nhau “khu phố” và “đàn cừu”. Hai cảnh này lại được hỗn độn hoá trong hai câu
chuyện: của “tôi” về người bạn thời ấu thơ làm nghề du lịch và “tôi” làm nhà văn. Nửa sau của
truyện mới nhắc đến cô gái trong cái nhan đề kia, nhưng cô gái đó không ở trong đời thực mà ở
trên ti vi. Người kể xem ti vi trong lúc ăn bánh mì và uống bia. Tình thế càng trở nên khó hiểu vì
cái chuyện giới thiệu khu phố với đàn cừu đó không thực gây chú ý với tôi vậy nên tôi sẽ không
đến thăm khu phố đó, cũng như tôi cũng sẽ còn lâu mới có thể gặp, hoặc khác đi là có thể chẳng
gặp lại người bạn kia.
Trong Vườn cỏ buổi chiều cuối cùng, người kể tôi biểu lộ cảm xúc xáo trộn khi bị người
tình chia tay, theo cái cách không thể nào tưng tửng hơn: “Vào một buổi sáng mùa hè, đầu tháng
bảy, tôi nhận được lá thư dài của người tình, bảo là muốn chia tay. Em đã yêu anh suốt từ ngày xưa,
bây giờ vẫn yêu, và sẽ còn yêu,... vân vân. Nói tóm lại là muốn chia tay đó thôi. Bởi nàng đã có
người yêu mới. Tôi lắc đầu, hút sáu điếu thuốc, ra ngoài uống bia lon, rồi trở về phòng, hút thuốc
nữa. Và đã bẻ gãy ba cây bút chì độ cứng HB trên bàn học. Cũng chẳng phải giận tức gì. Chỉ bối
rối không biết phải làm gì thôi. Thế rồi thay áo quần, đi làm. Từ đó, trong một khoảng thời gian,
người chung quanh bảo là tôi dạo này trông vui tươi quá nhỉ. Cuộc đời thật khó hiểu”.
“Tôi” trong truyện là sinh viên làm thêm với nghề cắt cỏ ngoài giờ. Cơ sự xảy ra khi cô
người yêu 19 tuổi đột nhiên nói lời giã từ vì nàng đã có tình nhân mới. Tôi không biết rõ là đã yêu
hay chưa thực sự yêu nàng, nhưng thực tế thì lời chia tay đó đã tác động khá lớn đến tôi. Tôi cố
giữ vẻ bình thản, vẫn đi làm như đúng lịch trình nhưng trong tôi đã có sự đổ vỡ. Tôi chọn một khu
vườn xa trung tâm, nơi có một quả phụ, theo lời bà ta là sống với cô con gái, để cắt cỏ. Sáng hôm
đó chỉ có người quả phụ ở nhà. Tôi cắt cẩn trọng như thường lệ, có nghĩa, khu vườn được xén rất
chu đáo đến mức mà bà chủ ngợi khen là cắt giống cách người chồng quá cố của bà cắt. Xong việc,
bà ta giữ tôi lại uống rượu, bảo tôi mở tủ quần áo cô con gái xem, rồi phát biểu suy nghĩ về cô ta.
Tôi nói đôi điều và quả phụ có vẻ miễn cưỡng cho là đúng. Tôi lái xe về, trên đường hơi bị choáng
vì rượu và đôi lúc hình ảnh cô người yêu vừa nói lời chia tay lại hiện lên.
Trong cuộc đối thoại tại ngôi nhà, người đọc có thể suy đoán, có thể người mẹ đó đã mất đi
cả cô con gái, có thể người mẹ đó đọc được nét thất tình trên mặt tôi nên đã cố động viên tôi và
cuối cùng,. . . tất cả chỉ là dự đoán. Tác giả đưa ta vào một mê cung của những ngả rẽ nghĩa của
thiên truyện. Trạng thái hoang mang luôn hiện diện trên từng trang sách và cả trong tri nhận của
người đọc. Cái đọng lại trong người đọc, ắt hẳn, là hình ảnh của một con người đương đầu với mất
mát, với nỗi cay đắng của đời mình. Có sự tương phản giữa quả phụ giàu có và chàng sinh viên
nghèo. Nhưng cả hai dường như đều ở vào khoảnh khắc bi kịch của kiếp người. Họ cô độc ngay
cả khi đối diện nhau, thậm chí là có thể hiểu phần nào đó về nhau. Họ nói chuyện với nhau qua li
rượu hay nói với chính li rượu trên tay. Họ không hề chờ đợi điều gì mà ngay cả nếu hi vọng như
cách bà chủ nhà muốn tôi quay lại cắt cỏ khi tôi có thể cắt cỏ thì vẫn không thể vì tôi đã dứt khoát
5
Đào Thị Thu Hằng và Hoàng Thị Mỵ
từ bỏ cái nghề đó vào chính chiều hôm đó. . . Dẫu sao thì, cái lát cắt của nỗi đau dường như không
đủ sức chế ngự mạch sống đời. Cắt cỏ là một hành trình không ngừng nghỉ nếu con người muốn
có cuộc sống tốt đẹp hơn. Và với sự chuyên nghiệp cộng với niềm đam mê nghề của tôi đó, chúng
ta hi vọng điều tốt đẹp sẽ diễn ra trong tương lai, theo cái cách người cắt cỏ, cắt bỏ những thứ thừa
thãi, xấu xí, chỉ để lại một thảm cỏ đẹp cho đời.
Nếu như tiểu thuyết Murakami là thế giới phức tạp, đa bội, lắm mê cung và dường như
không lối thoát, nơi đầy rẫy những cạm bẫy, hiểm nguy, nơi mà con người luôn phải từng giờ, từng
phút đối mặt và trải nghiệm quay cuồng trong vòng xoáy dữ dội của nhiều cám dỗ nhân sinh, thì
với truyện ngắn, ông lại đưa người đọc vào thế giới khác. Độ căng của câu chuyện và cả những
lớp nghĩa ẩn dụ hỗn độn của chúng luôn chìm khuất. Truyện ngắn của Murakami với những câu
chuyện đời gần gũi, chân thực, bằng văn phong nhẹ nhàng, sâu lắng chuyển tải nhiều thông điệp
nhân sinh sâu sắc.
Trong truyện Con voi biến mất, Murakami miêu tả một sự kiện huyền ảo, một con voi già,
có người quản tượng già chăm sóc, sau một đêm bỗng dưng biến mất khỏi chuồng thú, nơi vốn
được bố trí an ninh gần đến mức tuyệt đối. Không có cách gì cắt nghĩa được chuyện voi biến mất,
vì chìa khóa không bị đánh cắp, vòng khóa chân voi vẫn y nguyên, các bức tường và lối đi không
có bất kì dấu hiệu nào cho thấy voi đã đi qua. Chỉ còn một nguyên nhân duy nhất là con voi già
thu mình nhỏ lại rồi biến mất. Việc đó, phần nào được kiểm định qua tôi, người kể, người tình cờ
tìm được chỗ trên đồi, có thể ngắm voi vào thời khắc muộn nhất trong ngày khi chỉ còn mình quản
tượng chăm sóc chú voi già.
Câu chuyện voi biến mất được kể song song với chuyện tôi là nhân viên bán hàng gia dụng.
Tôi không chỉ là người gần như nắm được nguyên nhân biến mất của voi, mà còn là người trăn trở
nhiều vì chuyện voi biến mất đó. Câu chuyện nếu căn cứ trên việc điều tra voi biến mất theo logic
thông thường thì đây thật là một chuyện hoang đường. Làm gì có chuyện một con voi được canh
giữ chu đáo thế mà lại có thể biến đi mất trước mặt bàn dân thiên hạ của cả một thành phố. Quả
là lối kể chuyện hỗn độn, nhưng hấp dẫn theo lối truyện trinh thám tội phạm hậu hiện đại, đúng
hơn là phản trinh thám bởi lẽ cuối cùng chẳng ai biết tội phạm làm mất, hay đánh cắp voi là ai,
chẳng ai biết cuối cùng con voi đó đi đâu, chẳng có cái kết luận nào từ toà án thành phố. . . Nhưng
nếu đọc theo lối khác, lối viết hỗn độn huyền ảo thì người đọc sẽ có thể phần nào cắt nghĩa được
truyện này.
Ta cùng căn cứ vào lời kể của “tôi”. Sở thú giải tán vì lí do làm ăn bết bát nên voi được
chuyển giao cho thành phố quản lí. Lễ khánh thành nơi ở mới của voi diễn ra trong bầu không khí
trang trọng, đầy tình yêu quý động vật không phải vì động vật mà vì sự phô trương tấm lòng mang
tính mị dân của các nhà quản lí. Có lẽ chú voi chú voi thấu hiểu điều đó: “Con voi hầu như hoàn
toàn bất động, gắng gượng chịu đựng những nghi thức chẳng có ý nghĩa gì ấy – ít nhất thì hoàn
toàn vô nghĩa đối với nó – với đôi mắt trống vắng đến như hoàn toàn vô thức, nhồm nhoàm nhai
những quả chuối đưa tận miệng nó. Voi ăn hết chuối, người ta vỗ tay rào rào” [2;192]. Đấy là thái
độ voi già trước sự đón chào hào nhoáng rỗng tuyếch của thành phố. Con voi đó có thể xem là
một biểu tượng tinh thần, một phần của môi trường thiên nhiên, cái mà con người giờ đầy hầu như
chẳng buồn quan tâm, (thế mới xảy ra chuyện đối thoại quyết liệt giữ phe đối lập với thị trưởng
thành phố về chuyện nhận hay không nhân nuôi voi). Cái con người thực sự quan tâm lúc này là đồ
gia dụng, sự đồng bộ tiện nghi hiện đại trong nhà bếp. Vì lẽ đó, như một nghịch lí bi hài, tôi càng
bán nhiều đồ gia dụng thì người ta càng lãng quên đi chú voi già tội nghiệp đó, đến mức tôi đã ý
thức: “Thỉnh thoảng, tôi cảm thấy có vẻ sự vật chung quanh mình đã mất đi sự thăng bằng chính
6
Cách kể “hỗn độn” trong truyện ngắn Murakami Haruki
đáng cố hữu của chúng. Cũng có thể đó chỉ là ảo giác của tôi. Từ khi có chuyện con voi biến mất,
bên trong tôi đã có gì đấy mất thăng bằng, vì vậy mà sự vật bên ngoài phản ánh vào mắt tôi kì dị
như thế không chừng. Trách nhiệm ấy có lẽ ở phía tôi” [2;216]. Một lối kể tự tra vấn trách nhiệm
làm người. Lối kể này độc đáo ở chỗ hoài nghi chính những nhận thức của mình khi đứng ở vị thế
của một người buôn đồ gia dụng để kể. Nhưng đồng thời nó cũng là sự đan cài cái sự ý thức về
việc nền công nghiệp vật chất đang huỷ diệt môi sinh và nhiều giá trị tinh thần.
Chuyện nuôi voi, chăm sóc voi, xem voi,. . . được đặt song song với việc kinh doanh đồ điện
gia dụng: “Tôi vẫn như thường lệ, tiếp tục rao bán quanh quất những tủ lạnh, máy nướng bánh mì,
máy pha cà phê,. . . dựa trên những hình tượng tiện nghi thực dụng còn sót lại của kí ức trong một
thế giới chuộng tiện nghi thực dụng” [2;216]. Cuối cùng, câu kết của tác phẩm là đây, một sự tiếc
nuối mang tính báo động: “Voi và người nuôi voi đã biến mất rồi, họ không còn trở lại nơi này lần
nào nữa” [2;217].
Bình luận về truyện này, Herbert Mitgang đặt câu hỏi: “Nhưng những gì về con voi biến
mất? Và những gì về bạn gái biến mất mà người kể gặp trong công việc? Vâng, một con voi già
không biến mất, cùng với người chăn già của nó, từ một vùng ngoại ô Tokyo, và phải, người kể
chuyện muốn kết nối với một người bạn gái mới, nhưng ngôn ngữ kéo họ ra xa nhau. Cô ta dường
như đếm số từ của hắn quá tỉ mẩn. Qua một sự cố nhỏ, Murakami bằng cách nào đó nỗ lực để ghép
các mảnh trong câu đố ma thuật lại với nhau nhưng không hướng đến một giải pháp. Trên đường
đi, ông lặng lẽ quan sát các nhà đầu tư phát triển, các quan chức thành phố hào hoa, viên chức thực
thi pháp luật vớ vẩn và các phương pháp quá mức cần thiết của nhà nước” [5].
Như thế, chính thói đời khoa trương, đánh bóng tên tuổi, những thủ tục sốt sắng, những bất
đồng muôn thuở giữa lợi ích vật chất và phi lợi ích của giới chức thành phố đã góp phần làm biến
mất cả một chú voi khổng lồ. Câu chuyện trưng ra tiếng cười bi đát, chỉ vì không yêu quý voi theo
đúng tình người mà chỉ vờ yêu quý để trục lợi nên chú voi đó, dù có sống sờ sờ ra đó kể như cũng
đã biến mất rồi. Hơn nữa, cái sự biến mất của con voi già còn ẩn dụ cho sự tàn phá môi trường mà
con người gây ra. Với sự tham lam bất tận của mình, loài người đã đẩy biết bao sinh vật khác vào
thảm hoạ diệt vong, biến mất không kèn trống trên cuộc đời.
Cùng với tiểu thuyết, tiếp cận Murakami từ truyện ngắn cũng là một cách để độc giả có
thêm cách nhìn mới về văn học, con người Nhật Bản. Ta thấy có sự cách tân lớn lao trong lối kể
hỗn độn của Murakami. So với những gì từ trước tới nay đã được “tôn thờ” bởi quan niệm mĩ học
truyền thống, người đọc sẽ khám phá được sự đa dạng trong phong cách sáng tác của một nhà văn
lớn. Tình thực, với nỗ lực học hỏi và sáng tạo không ngừng, đến với truyện ngắn Murakami, bạn
đọc còn thu nhận thêm cho mình vô vàn cách nhìn cuộc sống, cũng như những bài học bổ ích. Bên
dưới sự hỗn độn mà nhà văn tạo dựng, chúng ta có lúc sẽ nhận ra được sự hiện diện rất gần của
chính những khiếm khuyết của bản thân mình trong đó.
Murakami thể nghiệm nhiều lối viết trong truyện ngắn. Bóng ma ở Lexington ghi nhận lối
viết hỗn độn huyền ảo pha kinh dị theo lối Edgar Allan Poe. Cũng vẫn người kể xưng “tôi”, được
người bạn nhờ đến trông hộ nhà. Đấy là căn nhà cổ kính, giàu có, đầy đủ tiện nghi. Nhiệm vụ của
tôi thực đơn giản, chỉ hằng ngày cho chú chó ăn hai bữa, rồi nghe nhạc, điều tôi vốn rất thích trong
lúc sáng tác văn chương. Tối hôm đó trôi qua bình thường trước khi tôi đi ngủ. Nhưng nửa đêm,
tôi phát hiện có âm thanh chuyện trò của dạ tiệc dưới phòng khách. Ban đầu tôi nghĩ có kẻ lạ đột
nhập. Tôi lần xuống bếp lấy vũ khí để tự vệ, nhưng sau khi quan sát mọi nhẽ, tôi bỗng giật mình
phát hiện ra rằng chẳng thể có người nào trong phòng khách đó, mà đấy chỉ là một bữa tiệc vui
vẻ của những hồn ma. Tôi bèn không vào đó mà trở lại lên lầu, về phòng mình rồi chìm vào giấc
7
Đào Thị Thu Hằng và Hoàng Thị Mỵ
ngủ. Câu chuyện hấp dẫn, đầy căng thẳng của những sự kiện huyền bí. Nhưng nếu dụng ý của tác
giả chỉ dừng lại ở việc nhát ma này thì đây là một tác phẩm rất xoàng của loại truyện này. Đương
nhiên, ma chỉ là cái cớ. Điều tác giả quan tâm là lí do ma hiện hiện nơi phòng khách trong bầu
không khí tiệc tùng kia.
Ắt hẳn, điều “tôi” thực sự muốn nói là tình cảm và trách nhiệm của con người với người
thân và với loài người nói chung. “Tôi” là nhà văn nhưng có sở thích nghe nhạc Jazz. Casey chủ
nhân của ngôi nhà được thừa hưởng từ cha mình một kho nhạc vô giá mà hiếm người có được.
Kho nhạc đó là biểu tượng cho giá trị văn hóa truyền thống. Sở hữu nó là niềm hạnh phúc lớn lao
của bất kì ai yêu âm nhạc. Đáng chú ý ở gia đình này là mẹ của Casey mất sớm, khi Casey lên 10
tuổi, cái chết đó không chỉ gây nên nỗi đau cùng tận nơi Casey mà còn giáng