Một nghiên cứu mới của trại giống Minh An, tỉnh Vĩnh Long, vừa đưa
ra những biện pháp kỹthuật đểlàm thịt cá tra từvàng chuyển thành
trắng.
Thông thường, đểthịt cá tra trắng, người nuôi phải thay nước thường
xuyên. Tuy nhiên, biện pháp này cho kết quảkhông đồng đều ởcác hộ
khác nhau và thay nước nhiều cá dễbịbệnh và chết. Có 2 nguyên nhân
dẫn đến thịt cá tra có màu vàng, đó là do nước ao bẩn và cá ăn thức ăn
ôi thiu. Bằng thửnghiệm sục khí đáy kết hợp với thay nước có kiểm
soát, tỉlệthịt trắng đã đạt đến 75%.
Theo đó, khi sinh khối cá trong ao từ2 kg/m3 thì việc sục khí nên tiến
hành khoảng 12 giờ/ ngày; khi sinh khối cá đạt 6 kg/m3 nên sục khí 24
giờ/ ngày. Được biết, chi phí nuôi cá tra cho thịt trắng bằng cách sục
khí đáy có giá thành khoảng 7.053 đồng/kg, thấp hơn khoảng 200
đồng/kg so với chi phí nuôi bằng cách thay nước.
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách làm trắng thịt cá tra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cách làm trắng thịt
cá tra
Một nghiên cứu mới của trại giống Minh An, tỉnh Vĩnh Long, vừa đưa
ra những biện pháp kỹ thuật để làm thịt cá tra từ vàng chuyển thành
trắng.
Thông thường, để thịt cá tra trắng, người nuôi phải thay nước thường
xuyên. Tuy nhiên, biện pháp này cho kết quả không đồng đều ở các hộ
khác nhau và thay nước nhiều cá dễ bị bệnh và chết. Có 2 nguyên nhân
dẫn đến thịt cá tra có màu vàng, đó là do nước ao bẩn và cá ăn thức ăn
ôi thiu. Bằng thử nghiệm sục khí đáy kết hợp với thay nước có kiểm
soát, tỉ lệ thịt trắng đã đạt đến 75%.
Theo đó, khi sinh khối cá trong ao từ 2 kg/m3 thì việc sục khí nên tiến
hành khoảng 12 giờ/ ngày; khi sinh khối cá đạt 6 kg/m3 nên sục khí 24
giờ/ ngày. Được biết, chi phí nuôi cá tra cho thịt trắng bằng cách sục
khí đáy có giá thành khoảng 7.053 đồng/kg, thấp hơn khoảng 200
đồng/kg so với chi phí nuôi bằng cách thay nước.
(Theo NLĐ) Nets, 8/2006
Kinh nghiệm nuôi cá tra thịt trắng
1. Tiềm năng nuôi cá tra
Cá tra (Pangasius hypophthalmus) là đối tượng nuôi thuỷ sản nước
ngọt được nuôi chủ lực của các tỉnh Ðồng bằng sông Cửu Long
(ÐBSCL). Ðây là loài cá có tính thích nghi rộng, chịu đựng được
những điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Nó có thể nuôi trong môi
trường nước chảy (lồng, bè, đăng, quầng ) với mật độ rất cao : 100 -
150 con/m3 nước; đồng thời có thể sống trong môi trường nước tĩnh
(ao, hầm, mương vườn, ruộng lúa,), năng suất nuôi có thể đạt tới 300
tấn/ha.
Ðồng Tháp có diện tích mặt nước có thể đạt trên 2.000 bè nuôi cá (ba
sa, tra) và đất bãi bồi 1.412 ha được phân bố ở 9 huyện, thị dọc theo
sông Tiền và sông Hậu. Với tiềm năng nuôi như trên, hiện nay Ðồng
Tháp mới triển khai nuôi 200 bè và 300 ha diện tích đất bãi bồi thì sản
lượng cá thương phẩm khoảng 72.000 tấn.
Phần lớn đất đai của tỉnh Ðồng Tháp nằm giữa 2 con sông Tiền và sông
Hậu với nhiều bãi bồi, ao hầm, có nguồn nước ngọt dồi dào và được
nước lũ bồi bổ, nuôi dưỡng, làm sạch môi trường nên hoàn toàn có thể
tin tưởng Ðồng Tháp là tỉnh có tiềm năng lớn trong việc phát triển nuôi
cá tra có chất lượng phục vụ cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, việc phát huy tiềm năng đó không chỉ nằm ở nuôi trồng, sản
xuất mà phần quyết định chính là ở khâu thị trường tiêu thụ và năng lực
chế biến xuất khẩu.
Những năm qua, nghề nuôi cá tra có những bước thăng trầm, giá cả
không ổn định, việc lời lỗ không quyết định ở năng suất mà quyết định
do giá cả, thị trường. Rồi vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa, các đòi
hỏi về kỹ thuật, về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày một khắt khe hơn.
Ðặc biệt các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU đòi hỏi rất nghiêm ngặt
về chất lượng sản phẩm. Do đó sản phẩm cá tra thịt trắng có nhu cầu
ngày càng cao và là vấn đề bức xúc đối với các nhà doanh nghiệp chế
biến xuất khẩu thuỷ sản và người nuôi.
2. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến màu thịt cá tra
Từ thực tiễn sản xuất cho thấy, có thể phân loại màu thịt cá tra từ cao
đến thấp như sau: trắng, vàng chanh, hồng, vàng.
Theo nhận định của một số nhà khoa học màu thịt cá có thể quyết định
bởi 3 yếu tố : di chuyển; chế độ dinh dưỡng (thức ăn); điều kiện sống
(môi trường, thời tiết, ). Trong đó, thành phần các loại thức ăn của cá
có tác động rất lớn đến màu thịt của cá tra nuôi. Dù nuôi cá bất cứ ở
hình thức nào (bè, ao), bất cứ môi trường nào (nước chảy, nước tĩnh)
nếu sử dụng những loại thức ăn xanh (rau muống), chất kết dính (bột
gòn) thì chắc chắn thịt cá sẽ có màu vàng.
Một số hộ nuôi cá bè khác còn cho biết các loại thức ăn như bắp, bí đỏ,
cua đồng, cũng là nguyên nhân làm cho thịt cá tra không được trắng
(vàng chanh, hồng).
Cùng một thành phần thức ăn (rau muống, cám tấm nấu, cá tạp xay
nhuyễn) nếu được ủ lên men bằng hèm rượu sau 24h mới cho cá ăn thì
thịt cá sẽ trắng đẹp do quá trình ủ lên men đã phân huỷ một số thành
phần diệp lục tố trong rau muống. Còn ngược lại, nếu cho cá ăn trực
tiếp không qua ủ lên men thì thịt cá sẽ có màu vàng. Trong năm 2000,
cá thịt trắng bán cho các nhà máy chế biến xuất khẩu thuỷ sản với giá
14.000 đ/kg trong khi cá thịt vàng bán tiêu thụ nội địa chỉ được 10.000
đ/kg. Qua đó cho thấy cá tra thịt trắng là một trong những tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng sản phẩm, là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh tế
trong việc nuôi cá tra thương phẩm. Hộ anh Nguyễn Văn Hà ở xã Mỹ
An Hưng A - huyện Lấp Vò - Ðồng Tháp thả nuôi 120.000 con cá tra
trên diện tích 2.000 m2, thu hoạch được trên 100 tấn cá thương phẩm
có chất lượng thịt trắng (Ðây là vụ nuôi thứ ba liên tiếp anh thu hoạch
từ 100 - 120 tấn cá trong 01 vụ). Với thành phần thức ăn 45% cám
chuối, 45% cá biển xay, 15% bả hèm rượu, phối thêm một ít vitamin,
premix. Ngày trung bình thay nước 5 giờ (khoảng 15% nước ao). Tảo
trong ao vẫn phát triển rất mạnh, độ trong thấp (<15cm). Qua kinh
nghiệm của anh Hà và một số hộ nuôi khác, có thể sơ bộ kết luận : Bả
hèm rượu với một lượng vừa phải từ 10 - 15% được bổ sung liên tục
vào thành phần thức ăn nuôi cá tra sẽ giúp cá có sức đề kháng tốt, ít
bệnh và quan trọng hơn hết là thịt cá có màu trắng (tỉ lệ cao) và một tỉ
lệ thấp vàng chanh, hồng.
Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, thời tiết
Tổng kết các mô hình nuôi cá tra hiện nay, chúng tôi nhận thấy mỗi mô
hình nuôi đều có những ưu và nhược điểm của nó, theo thứ tự như sau :
- Cá nuôi ao nước tĩnh ít thay nước, hệ số thức ăn thấp, tỉ lệ sống cao,
cá ít bệnh, thịt cá có màu vàng.
- Cá nuôi ao bãi bồi có chế độ thay nước thường xuyên, hệ số thức ăn
cao hơn, tỉ lệ sống thấp hơn, thịt cá màu trắng, vàng chanh đến hồng.
- Cá nuôi bè, đăng quầng nước chảy, hệ số thức ăn cao hơn hết, tỉ lệ
sống thấp nhất (chỉ đạt khoảng 70 - 75%), thịt cá trắng đẹp, tỉ lệ vàng
chanh thấp. Mô hình này cá thường bị bệnh do phải phụ thuộc thường
xuyên vào môi trường nước bên ngoài thay đổi.
Như vậy là nếu giữ được môi trường nước trong sạch, không để tảo
phát triển, có chế độ thức ăn hợp lý (nên dùng thức ăn viên công nghiệp
và định kỳ dùng các sản phẩm xử lý đáy ao để giảm thiểu vấn đề thích
tụ chất thải và giảm ô nhiễm nguồn nước, đáy ao). Nếu làm tốt những
yêu cầu trên thì chúng ta sẽ tạo ra được sản phẩm cá tra chất lượng cao,
thịt cá trắng đẹp, bán có giá hơn.
Ngoài ra, cũng cần chú ý vào thời điểm nước quay (đầu tháng 5 ÂL) là
lúc nước có màu đỏ son khiến cá tra nuôi bè hoặc đăng quầng bị ảnh
hưởng thịt cá bị đổi màu, nếu thu hoạch lúc này thì giá bán rất thấp.
Ðặc biệt trong những ngày nắng nóng kéo dài, nhiệt độ nước sông trên
29oC và nhiệt độ nước ao nuôi trên 38oC cũng có thể làm cho màu thịt
cá tra kém chất lượng.
Rút được kinh nghiệm trên, trong thời gian qua ngư dân Ðồng Tháp đã
thực hiện các biện pháp nuôi như sau :
Về mô hình nuôi : chuyển đổi từ nuôi trong ao sang nuôi đăng quầng và
nuôi trong ao ven sông để chủ động thay nước.
Về thức ăn : Chuyển từ sử dụng thức ăn tự chế biến sang sử dụng thức
ăn công nghiệp.
Về con giống : Chuyển từ việc sử dụng con giống tự nhiên sang con
giống sinh sản nhân tạo
Theo Sở NN&PTNT Ðồng Tháp