Cách sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời

1. Ngôn từ, yếu tố đầu tiên và vô cùng quan trọng của tác phẩm, là chất liệu và là chất men cho tác phẩm. Nhà văn Bùi Bình Thi nói: “Chữ trong văn xuôi cần có men câu chữ trong truyện ngắn nói riêng nó lên men, nó toả hương, nó rủ rê dắt dẫn, nó quyến rũ ta, nó là cái hồn của câu chuyện”. Do dung lượng nhỏ mà sức chứa phải lớn nên trong truyện ngắn ngôn ngữ phải chắt lọc, cô đọng, hàm súc, câu chữ tinh gọn, đòi hỏi ở nhà văn một thái độ lao động hết sức nghiêm túc, mà Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu nhất sử dụng phương pháp sáng tác này. (*) Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại Hà Nội trong một gia đình nho giáo, con cụ Tú Hải Vân, thời còn trẻ ông đã theo gia đình sinh sống tại nhiều tỉnh miền Trung. Năm 1929, tham gia bãi khoá bị đuổi học, trốn sang Băng Cốc, bị bắt giải về nước và bị bỏ tù; năm 1937 sống bằng nghề viết, năm 1938 sang Hồng Kông đóng phim Cánh Đồng Ma, năm 1945 theo Việt Minh, mất năm 1987 tại Hà Nội

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011 41 CÁCH SỬ DỤNG NGÔN TỪ CỦA NGUYỄN TUÂN TRONG VANG BÓNG MỘT THỜI TRỊNH VIẾT TOÀN (*) NGUYỄN ĐÌNH ĐƯƠNG (**) TÓM TẮT Cách sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân hết sức độc đáo. Việc vận dụng ngôn từ của ông trong vang bóng một thời thể hiện rõ điều này. Ông đã sử dụng hệ thống từ cổ, từ Hán Việt, tiếng lóng, thành ngữ, nghệ thuật vẽ mây nảy trăng, từ ngữ chỉ thời gian mang tính hoài cổ, biện pháp tu từ tương phản, phép tách từ... đạt hiệu quả cao. ABSTRACT Nguyen Tuan’s use of words in “Once Famous” was very original,. He effectively employed a system of archaic words, words of Chinese origin, slangs, idioms, figurative words, words denoting time of the past, rhetoric words showing contrast, words which can split. 1. Ngôn từ, yếu tố đầu tiên và vô cùng quan trọng của tác phẩm, là chất liệu và là chất men cho tác phẩm. Nhà văn Bùi Bình Thi nói: “Chữ trong văn xuôi cần có men câu chữ trong truyện ngắn nói riêng nó lên men, nó toả hương, nó rủ rê dắt dẫn, nó quyến rũ ta, nó là cái hồn của câu chuyện”. Do dung lượng nhỏ mà sức chứa phải lớn nên trong truyện ngắn ngôn ngữ phải chắt lọc, cô đọng, hàm súc, câu chữ tinh gọn, đòi hỏi ở nhà văn một thái độ lao động hết sức nghiêm túc, mà Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu nhất sử dụng phương pháp sáng tác này. (*) Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại Hà Nội trong một gia đình nho giáo, con cụ Tú Hải Vân, thời còn trẻ ông đã theo gia đình sinh sống tại nhiều tỉnh miền Trung. Năm 1929, tham gia bãi khoá bị đuổi học, (*) Trường Đại học Sài Gòn (**) Trường Đại học Thủ Dầu Một trốn sang Băng Cốc, bị bắt giải về nước và bị bỏ tù; năm 1937 sống bằng nghề viết, năm 1938 sang Hồng Kông đóng phim Cánh Đồng Ma, năm 1945 theo Việt Minh, mất năm 1987 tại Hà Nội. Trên văn đàn, Nguyễn Tuân không phải là người viết nhanh, viết nhiều so với đồng nghiệp. Vốn sống, vốn văn hoá, vốn chữ nghĩa giàu có của ông so với những gì viết ra quả chưa tương xứng, bởi vì ông là người viết rất kĩ, rất công phu. Với Nguyễn Tuân “Đã viết thì phải độc đáo, phải in đậm cá tính, phong cách riêng của mình trên trang sách. Nghĩa là phải viết cho ra Nguyễn Tuân, mỗi lần đặt một câu, một chữ lên trang giấy trắng, phải làm sao để có thể nói được dõng dạc với độc giả: Đây là văn Nguyễn Tuân, đây là chữ nghĩa của Nguyễn Tuân!” (Nguyễn Đăng Mạnh). Vâng “Đọc nhiều, tra cứu nhiều, đi nhiều, xem nhiều, tích lũy nhiều – Mỗi lần cầm bút là cân nhắc từng chữ, từng 42 câu, viết xong còn đọc đi đọc lại nhiều lần để kiểm nghiệm lại không chỉ bằng mắt mà cả bằng tai mà phải ngửi lại, nếm lại cái lời mình viết ra kia có khi lại như chính lòng bàn tay mình phải sờ lại những góc cạnh câu viết của mình” (Về tiếng ta). Đúng là bản chất của con người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Chính với sự chịu khó cam khổ, ý thức trách nhiệm cao về ngòi viết của mình, Nguyễn Tuân trở thành gương sáng khổ luyện ngôn từ, thành “ông lái bậc thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn đầy thác ghềnh”. Đọc văn Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Quang Sáng hết lời ca ngợi: “Đọc Nguyễn Tuân thấy hay từng chữ một”. 2. Trong số những tác phẩm trước cách mạng, Vang bóng một thời - “chùm quả chín xếp rất đều, rất đẹp” được nhắc đến nhiều hơn cả. Tập truyện đã làm sống lại cả một thời phong kiến đã qua với những nghệ thuật cổ thanh cao, những nếp sống, sinh hoạt xã hội nho phong của một nền văn minh xưa cũ, nó cũng là niềm nuối tiếc của một tâm hồn hoài cổ trước những cái hay, cái đẹp, những nghệ thuật cầu kì của một thời đại đã qua, cái thời ấy nay đã chết rồi, chỉ còn để lại một tiếng vang: Vang bóng một thời. Đọc Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, ta có cảm tưởng gần giống như khi ngắm một bức hoạ cổ. Gần giống, vì hoạ sĩ, tác giả bức hoạ cổ, là người thời xưa, có cái óc của thời nay và có những nét, những mầu của thời nay, còn tác giả Vang bóng một thời chỉ là người khơi đống tro tàn của dĩ vãng để bày lại trước mắt ta những cái ta đã biết qua hay chưa biết rõ. Vang bóng một thời không chỉ có nội dung phong phú mà còn đạt đến đỉnh cao về phong cách nghệ thuật. Mặc dù viết về thời đã qua nhưng tác phẩm vẫn gợi lên được không khí cổ kính, sinh động. Để làm công việc “phục chế” lại cái thời đã qua, Nguyễn Tuân chọn lọc và sử dụng tài tình hệ thống ngôn từ trong tập truyện đặc sắc này. Triệu Thị Huệ có viết: “ Tác giả Vang bóng một thời đã sử dụng hệ thống từ cổ, từ Hán Việt một cách đắc địa. Những từ cổ này được kết hợp hài hoà, chặt chẽ với những cảnh, những người trong quá khứ, tạo nên một hiệu quả đặc biệt. Người ta có cảm giác như sống với quá khứ, như đang trò chuyện với những nhân vật trong trang sách”. Hoàng Như Mai cũng đã nhận xét: “Mở cuốn Vang bóng một thời, người ta tưởng như mở hai cánh cửa bước vào một nhà bảo tàng văn hoá dân tộc, nơi đó trưng bày những hiện vật của một thời xưa”. Ấn tượng về sự xưa cũ, cổ kính một phần được tạo ra bởi hệ thống từ cổ kết hợp với những địa danh, tên gọi, cách nói, cách xưng hô mang dấu ấn của một thời, xuất hiện dày đặc trong tác phẩm. Những cái tên: Chùa Đồi Mai, xứ Đồng Côn, làng quan Công Sứ, khoa thi Mậu Ngọ, nhà nước bảo hộ, viên giám trảm, lính cơ, cụ nghè giờ đây đã trở thành xa lạ, thậm chí gây thắc mắc đối với người đọc đương thời nhưng lại giúp chúng ta rất nhiều trong hành trình trở về quá khứ. Có thể kể ra rất nhiều từ cổ, cách nói, cách xưng hô, như đã nói ở trên: Thụ một ít lộc Phật, ít nhời, chén tống chén quân, ấm quần tử, ấm Thế Đức màu gan gà, ấm đồng cò bay, kim hoả (Những chiếc ấm đất); người bạn đồng song, thả thơ, cái níp sách sơn son (Thả thơ); phiến trát, Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, thầy thơ lại, ngục 43 tốt, án thư, bộ tứ bình, bức trung đường, đồng tiền kẽm, lạc khoản, thoi mực, bái lĩnh (Chữ người tử tù); điệu cổ phong, ngâm gói hạc (Chén trà trong sương sớm); trường thi, lọng vàng, mùi nghi vệ, quan chánh chủ khảo, kinh truyện, “Báo oán giả, tiên nhập, báo oán giả, thứ nhập” (Báo oán). Việc sử dụng hệ thống từ cổ độc đáo như trên vừa thể hiện dụng ý của nhà văn lại vừa nói lên một cách đầy đủ nhất sự hiểu biết sâu rộng, cặn kẽ của ông về nhiều phương diện như lịch sử, văn hoá và xã hội. Hệ thống từ Hán Việt trong Vang bóng một thời cũng được sử dụng với mật độ dày đặc. Từ Hán Việt chiếm một bộ phận lớn trong vốn từ của người Việt. Trong văn học, các nhà văn sử dụng lớp từ này để tạo sự trang trọng, hàm súc cho câu văn. Tuy nhiên dùng một cách dày đặc về số lượng và có hiệu quả cao về chất lượng như Nguyễn Tuân thì hẳn không có nhiều. Đó cũng là lí do khiến nhiều người đánh giá văn Nguyễn Tuân khó đọc, khó hiểu và chỉ hợp với tầng lớp trí thức mà thôi. Chỉ thống kê sơ lược một số truyện trong Vang bóng một thời như Chữ người tử tù, Thả thơ, Báo oán ta cũng sững sờ khi thấy nhà văn sử dụng vốn từ này với liều lượng cao. Thả thơ: 127 từ (có lặp lại) Chữ người tử tù: 144 từ (có lặp lại) Báo oán: 283 từ (có lặp lại) (Sự thống kê trên có thể chưa đầy đủ vì một số từ rất khó phân định ranh giới Hán Việt – thuần Việt, do người Việt sử dụng quá quen thuộc). Đây là đoạn đối thoại mà người bạn học nói với ông Đầu Xứ Anh trong truyện Báo oán: “Đại huynh lúc không may lâm bệnh rời bãi trường, phải bỏ lại trên cỏ bản giáp bài kinh nghĩa. Là một người tự biết mình bất tài, tiểu đệ đã mạn phép hiền huynh điền vào quyển của đệ những lời gấm hoa đanh thép bị bỏ phí kia. Nay được vào kì đệ nhị, gọi là có món quà mọn gửi lại, xin đại huynh nhận cho”. Đoạn văn rất ngắn mà nhà văn dùng đến mười ba từ Hán Việt (chiếm gần một phần ba). Cách dùng từ như vậy phát huy được sức nặng về nghĩa của nó, diễn tả đúng hiện thực việc thi cử do triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Người có tài trở nên vô dụng, kẻ vốn vô dụng thì được triều đình cho là hữu dụng. Những truyện ngắn như thế giúp người đọc thấy được lịch sử dân tộc có những trang thật buồn tủi. Đó cũng là lí do mà Hà Bình Trị trong bài viết “Thầy chữ Nguyễn Tuân” đã nhận xét: “Đến nay, dường như chưa có cây bút nào vượt được Nguyễn Tuân trong việc gợi lên không khí cổ kính của một quá vãng xa xôi”. Bên cạnh sử dụng từ Hán Việt, từ cổ, nhà văn còn có cách dùng từ rất hình tượng: Lũ, tên, bọn, kẻ... “lũ cây chuối mật” (Chém treo ngành), “gông lũ tù dây va vào nhau”, “Lũ tử tù bị trói giật cánh khuỷu” (Chữ người tử tù), “Lũ chó mẹo” (Ném bút chì), “lũ bầu nậm trước sân nhà cô Tú” (Ngôi mả cũ), “lũ quay quắt” (Chữ người tử tù), “Bọn vợ lính cơ”, “Bọn hắn chịu án trảm” (Chém treo ngành),“ Bọn Bá Huần Kim Sơn”, “Cả bọn kéo nhau lên giường”(Ném bút chì), “tên tử tù” (Chém treo ngành), “Kẻ điên cuồng” (Chém treo ngành). Ông cũng vận dụng một số thành ngữ như “Lúc lên voi, lúc xuống chó” (Đánh 44 thơ), “Màn trời chiếu đất” (Ngôi mả cũ) tạo cho lời văn mang tính triết lí cao. Khi miêu tả sự vật, Nguyễn Tuân sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh làm cho sự vật được miêu tả mang tính người, có nghĩa hàm ẩn lớn. Một số câu như: “Giọt lệ nhà của những người mặc áo vải rỏ rơi xuống thì cát nơi bãi sông cứ việc thấm hút và uống cạn” “Nước một con sông hiền lành đẩy nhẹ cánh hoa vô định lừ lừ trôi một mình theo những cái xoáy nước yếu đuối.” (Đánh thơ), “Một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định” (Chữ người tử tù). Cùng với những cách nói rất trang trọng “Tiếng đàn hát của giai nhân”, “Đặt tiền bên chiếu bạc văn chương” (Đánh thơ), “Bát tràng màu xanh quan lục” (Hương cuội) Là người vốn kĩ lưỡng trong mọi sinh hoạt đời sống, Nguyễn Tuân cũng rất cẩn thận, kĩ càng trong từng chữ, từng câu văn của mình. Khi viết, nhà văn hết sức tiết kiệm ngôn từ, tả ít gợi nhiều, chủ yếu dùng nghệ thuật “Vẽ mây nảy trăng” (chữ dùng của Kim Thánh Thán, nhà phê bình văn học Trung Quốc). Để làm nổi bật nhân cách cao đẹp và tài năng lỗi lạc của Huấn Cao, tác giả tập trung miêu tả tấm lòng “trọng nghĩa liên tài” của quản ngục và thơ lại. Chi tiết quản ngục nhận thấy mình chỉ là “một kẻ tiểu lại giữ tù” “ngu muội” cũng đủ làm nổi lên khí phách “chọc trời khuấy nước”, “hoài bão tung hoành” và “tài năng phi thường” của Huấn Cao. Trong Chém treo ngành, cái tài “chém đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng làn da gáy” của Bát Lê, vai trò của ông trong ngày xử trảm mười hai tên tử tù, nhà văn dùng lời của viên quan Tổng Đốc “Nếu như cái nghề chém đặc biệt của chú không thể truyền lại cho một người nào được thì một lần cuối cùng này, chú cũng nên cho một vị quan Tây ở đây thấy rõ cái cách chém của một người đầy tớ hầu cận ta là như thế nào”. Dùng nghệ thuật “vẽ mây nảy trăng” làm cho tác phẩm với số trang ít mà giọng điệu, biến hoá, nhiều tình tiết sinh động, góp phần thể hiện một cách kín đáo tính khuynh hướng của tác phẩm, tránh luỡi kéo kiểm duyệt của nhà cầm quyền đương thời, ẩn giấu tấm lòng yêu nước, gắn bó với cội nguồn dân tộc của tác giả. Nhà văn làm công việc “phục cổ”, nên ngay cả từ ngữ về thời gian cũng ở thì quá khứ, mang tính hoài cổ. Thời gian trong các truyện in đậm tính chất thời gian của truyện cổ tích. Nếu truyện cổ tích thường lấy cách nói “ngày xửa ngày xưa” làm điểm dẫn vào câu chuyện thì Nguyễn Tuân dùng cách nói “Cái thời ấy, vào quãng thời gian ấy, cái hồi, hồi ấy, trước kiaTác giả miêu tả nhân vật trong sự xoay chiều, hồi tưởng về quá khứ. Ông sử dụng phép tương phản trong khi xây dựng các hình tượng người tử tù Huấn Cao, người quản ngục và thơ lại. Huấn Cao kẻ “cổ đeo gông”, “chân vướng xiềng” nhưng hiện lên như một vị vua có uy quyền, kẻ cứu rỗi. Quản ngục, kẻ đại diện cho pháp luật, nắm trong tay mạng sống của Huấn Cao lại khúm núm, sợ hãi mà tác giả dùng từ “ngấc đầu” gây ngữ cảm rất tội nghiệp. Ngay chính quản ngục và thơ lại cũng có sự tương phản giữa con người hành chính và con người thực chất của họ. Chữ của Huấn Cao lẽ ra phải được viết trong một môi trường sang trọng 45 nhưng việc cho chữ lại diễn ra trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột và gián”. Trong truyện Thả thơ, chỗ đức Thánh Tổ (tức vua Minh Mạng) đã ngự bút châu phê, câu văn ngài còn khắc trên đá, lẽ ra phải được tôn kính thì lại là nơi vợ chồng Phó Sứ và Mộng Liên yêu nhau say đắm đến chết. Khi bàn về ngôn ngữ của tác phẩm, chúng ta không thể không tìm hiểu kĩ lưỡng các biện pháp tu từ được sử dụng. Các biện pháp tu từ là những cách diễn đạt làm cho lời văn đẹp, ý văn sâu. Với văn Nguyễn Tuân, đặc biệt là Vang bóng một thời, tác phẩm được xem là gần đạt tới sự “toàn thiện toàn mĩ”, các biện pháp tu từ có vai trò không nhỏ. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh Bát Lê khi tập chém chuối chuẩn bị bước vào buổi hành hình mười hai tên tử tù “Trên đống thân cây trơn ướt, Bát Lê vẫn làm việc, nhảy nhót như một kẻ điên cuồng” rồi “như một võ sinh sắp trổ tài ở võ trường” (Chém treo ngành). Huấn Cao đuợc ví “Một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định” (Chữ người tử tù). Miêu tả cha con cụ Ấm uống trà “Trông hai cha con uống nước mà y như một đôi thầy trò vào một giờ học ôn buổi sớm mai” (Chén trà trong sương sớm). Cảnh trường được so sánh “Đứng xa trông người vô sự mà không có chữ tưởng đâu như dân cả một làng nào đang đốt đuốc bắt ếch. Càng tiến lại gần trường, người ta có cảm tưởng rùng rợn như khi chịu bó tay đứng nhìn một đám cướp lớn bật hồng phá nhà lấy của trên xóm trên” (Báo oán) Phù hợp hoàn cảnh, mục đích, nhà văn chọn lọc từ ngữ, cách nói khác nhau. Cái không khí lạnh lẽo, ma quái của cảnh chết chóc ở pháp trường đã man rợ càng tăng thêm phần rùng rợn qua cách nhận diện và so sánh của tác giả: “Bãi cỏ im lìm đến nỗi tiếng gông lũ tù dây va vào nhau theo một nhịp bước rụt rè nghe cứ rõ mồn một như tiếng sênh người chấp hiệu định liệu bước đi cho cỗ đòn đám” (Chém treo ngành) Nguyễn Tuân luôn thể hiện sự phong phú về tài năng của mình ở chỗ, khi cần không khí ảm đạm thì lối so sánh, dùng hình ảnh cũng mang vẻ thê lương chết chóc. Viết về những cảnh sinh hoạt an bình của người xưa, từ cách dùng biện pháp tu từ đến giọng điệu đều trong sáng và đẹp lạ lùng: “Đây là cái màu dịu mắt của chất ngọc bích, đấy là cái thứ ao xanh của ông quan Tư mã đất Giang Châu dùng lau nước mắt khi thương đến một người con hát giữa một con thuyền trống trải trôi trong một đám lau sậy ven sông” (Ngôi mả cũ) Cái màu áo của cậu Chiêu dưới giàn bầu nậm, trong làn nắng được tác giả hình dung kì lạ làm sao! Câu văn trở nên nhẹ nhàng, nhịp điệu cứ trầm bổng du dương khiến người đọc có sự liên tưởng phong phú về một cuộc sống bình lặng, giản dị và chan hoà. Đến những suy nghĩ của sư cụ chùa Đồi Mai cũng đầy chất thơ: “Ví buổi trưa hè này là một đêm có bóng trăng dãi lạnh lùng và ví cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị của một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa động” (Những chiếc ấm đất) 46 Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như minh hoạ cho hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Trời đất cho ta một cái tài Giắt lưng dành để tháng ngày chơi” Với ông, cái gì cũng phải đạt đến độc đáo thì mới hài lòng. Độc đáo từ cách chọn đề tài, bố cục, kết cấu, xây dựng hình tượng đặc biệt là ngôn ngữ. Từ ngữ miêu tả dụng cụ của bọn cướp cũng rất đặc biệt, nhà văn dùng loại tiếng lóng: “bút chì”, “lá chắn”, “bút chùng”. Khi họ chuẩn bị đám cướp to, tác giả dùng cụm từ “đánh một tiếng bạc lớn”. Cách dùng từ tạo nên không khí bí ẩn, lạ lùng, làm rõ sự lén lút bất chính của bọn người này. Nguyễn Tuân còn có thủ pháp rất đặc biệt là phép tách từ. Một số cụm từ như: Khoa và hoạn, danh và lợi, vàng và son, màn trời chiếu đất, bóng thì loáng lẽ ra đi chung và cùng diễn đạt một ý nhưng tác giả tách ra thành lối diễn đạt riêng, để phát huy ý nghĩa riêng, làm cho mỗi từ có thêm một nghĩa mới mẻ. Trong truyện Một cảnh thu muộn, nói về những vị quan đậu đạt mà không ra làm quan thì gọi là “có khoa mà không có hoạn”. Còn khi nói về tình cảm của người dân quê đối với cụ Nghè Móm vừa từ quan về quê trong truyện ngắn Thả thơ, tác giả viết: “Dân quê hiền lành vốn mến người có khoa hơn là có hoạn”. Từ Hán Việt “ khoa hoạn ” thường được dùng để nói về việc học hành thi cử đỗ đạt và ra làm quan của các cụ nhà Nho. Tuy nhiên, đến thời Nguyễn Tuân, Nho học không còn chiếm vị trí độc tôn nữa, con đường khoa hoạn cũng không có sức thu hút những người có học như trước nữa. Một số nhà Nho vì chán ngán thực tại xã hội nên cũng có “khoa” tức có học hành, không có “hoạn” nghĩa là không ra làm quan. Cách tách từ như vậy là rất tinh tế, diễn tả đúng cuộc sống của một bộ phận không nhỏ các nhà Nho thời bấy giờ. Việc tách từ này cũng được nhà văn vận dụng khi tỏ thái độ mỉa mai quan Đổng lí Quân vụ trong Chém treo ngành - kẻ quen ngả mình trên ghế bành “vàng và son” mà quan liêu hách dịch. Cũng như những đứa “dốt cay dốt đắng” mà vung tiền để học đòi thú chơi tao nhã trong Đánh thơ Ta còn gặp hiện tượng tách từ trong Ngôi mả cũ khi Nguyễn Tuân diễn đạt lại cảnh âm u hoang dã của rừng Hưng Hoá, nơi cô Tú và cậu Chiêu dắt nhau chạy loạn. “Màn trời có những vòm cây lá âm u. Chiếu đất có những cỏ áy, sim lụi và những cành cây mục bở với những đàn kiến lửa nối nhau ngày đêm bò liền liền như là quan quân đi tiễu giặc”. “Màn trời chiếu đất” vốn là thành ngữ nhưng được tách ra tạo cho câu văn có tính cụ thể hơn. 3. Có thể nói Vang bóng một thời đã đạt đến đỉnh cao về trình độ sử dụng từ. Chính tác phẩm này là cơ sở đưa Nguyễn Tuân trở thành bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam. Có được điều đó là nhờ truyền thống gia đình, kiến thức uyên bác, năng khiếu văn chương, sự am tường nhiều lĩnh vực nghệ thuật của nhà văn. Đặc biệt do quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc và hết mình, tình yêu của tác giả đối với văn hoá và ngôn ngữ dân tộc nên những trước tác của Nguyễn Tuân để lại mãi mãi là viên ngọc quý về sử dụng ngôn từ, trong kho tàng văn học Việt Nam. 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đăng Mạnh, (1999) Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 2. Nguyễn Đăng Mạnh, (1988) Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Nguyễn Tuân, (1986) chuyện nghề, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 4. Nguyễn Tuân, (2000) Nguyễn Tuân toàn tập – tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Nguyễn Tuân, (1998) tuyển tập Nguyễn Tuân – tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Nguyễn Tuân, (2001) Vang bóng một thời, Nxb Đồng Nai 7. Nhiều tác giả, (1998) Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Nhiều tác giả, (2004) Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Văn học Việt Nam. 9. Trương Chính, (1997) Tuyển tập Trương Chính – tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội. 10. Vũ Ngọc Phan, (1994) Nhà văn hiện đại – tập 1, Nxb Văn học và hội nghiên cứu và giảng dạy văn học, TP. HCM.