Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung

Người ta cần phân biệt giữa những chính sách giảm hàng rào thương mại tại biên giới và những chính sách bổtrợ“đàng sau biên giới các nước” có vai trò quan trọng trong việc hỗtrợ cải cách chính sách ngoại thương. Hệthống chính sách đầu tiên tập trung vào việc tạo ra các động cơkhuyến khích tăng trưởng hiệu quảthông qua giảm mức bảo hộbình quân và giảm tình trạng bảo hộlan tràn, loại bỏcác hàng rào phi thuế(non-tariff barriers - NTBs) và củng cốcác thểchếnhà nước nhằm đảm bảo hàng hoá lưu thông xuyên biên giới với chi phí giao dịch thấp (nghĩa là những thểchếhải quan mà hạn chếtới mức tối thiểu tệnạn quan liêu nhũng lạm). Hệthống chính sách thứnhì liên quan đến các tiêu chuẩn và chính sách qui định nhằm đảm bảo rằng sự đáp ứng trên khía cạnh cung của thịtrường trước sựtựdo hoá có tính hiệu quả, ổn định, và lâu dài. Những vấn đềquan trọng ở đây bao gồm việc tựdo hoá ngoại thương trong lĩnh vực dịch vụ đểtăng cường sức cạnh tranh, các chính sách đẩy mạnh tiếp cận thông tin và công nghệ, và củng cốcác thểchếnhằm đạt được lợi ích từviệc tham gia vào các hiệp định thương mại đa phương và khu vực. Các chương trong tập tài liệu này tập trung vào các khía cạnh của chương trình chính sách bổtrợ. Một chiến lược phát triển thương mại và tăng trưởng bền vững phải được đóng khung trong một môi trường nâng đỡkinh tếvĩmô thích hợp và gắn với chiến lược xoá đói giảm nghèo và phát triển toàn diện. Những nỗlực cải cách thểchếbổtrợvà những cải tiến trong môi trường pháp lý và qui định giúp nâng cao niềm tin của nhà đầu tưsẽcó ý nghĩa sống còn nếu sựtựdo hoá thương mại đóng vai trò nhưmột động lực tăng trưởng. Những yếu tốthen chốt của chương trình chính sách ngoại thương “đàng sau biên giới các nước” bao gồm những thểchếqui định hiệu quả, những thểchếmà ủng hộsựtham gia vào thị trường quốc tếcủa các doanh nghiệp nước nhà, và những biện pháp tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này thông qua việc mang lại sựtiếp cận với các yếu tố đầu vào dịch vụquan trọng. Trong chương 1, Dani Rodrik sẽxem xét một sốvấn đềnày

pdf16 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG TRONG TỪNG NỘI DUNG Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Niên khóa 2005 – 2006 Ngoại thương: Thể chế và tác động Bài đọc Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung Bernard Hoekman 1 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Quang Hùng CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG TRONG TỪNG NỘI DUNG Người ta cần phân biệt giữa những chính sách giảm hàng rào thương mại tại biên giới và những chính sách bổ trợ “đàng sau biên giới các nước” có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cải cách chính sách ngoại thương. Hệ thống chính sách đầu tiên tập trung vào việc tạo ra các động cơ khuyến khích tăng trưởng hiệu quả thông qua giảm mức bảo hộ bình quân và giảm tình trạng bảo hộ lan tràn, loại bỏ các hàng rào phi thuế (non-tariff barriers - NTBs) và củng cố các thể chế nhà nước nhằm đảm bảo hàng hoá lưu thông xuyên biên giới với chi phí giao dịch thấp (nghĩa là những thể chế hải quan mà hạn chế tới mức tối thiểu tệ nạn quan liêu nhũng lạm). Hệ thống chính sách thứ nhì liên quan đến các tiêu chuẩn và chính sách qui định nhằm đảm bảo rằng sự đáp ứng trên khía cạnh cung của thị trường trước sự tự do hoá có tính hiệu quả, ổn định, và lâu dài. Những vấn đề quan trọng ở đây bao gồm việc tự do hoá ngoại thương trong lĩnh vực dịch vụ để tăng cường sức cạnh tranh, các chính sách đẩy mạnh tiếp cận thông tin và công nghệ, và củng cố các thể chế nhằm đạt được lợi ích từ việc tham gia vào các hiệp định thương mại đa phương và khu vực. Các chương trong tập tài liệu này tập trung vào các khía cạnh của chương trình chính sách bổ trợ. Một chiến lược phát triển thương mại và tăng trưởng bền vững phải được đóng khung trong một môi trường nâng đỡ kinh tế vĩ mô thích hợp và gắn với chiến lược xoá đói giảm nghèo và phát triển toàn diện. Những nỗ lực cải cách thể chế bổ trợ và những cải tiến trong môi trường pháp lý và qui định giúp nâng cao niềm tin của nhà đầu tư sẽ có ý nghĩa sống còn nếu sự tự do hoá thương mại đóng vai trò như một động lực tăng trưởng. Những yếu tố then chốt của chương trình chính sách ngoại thương “đàng sau biên giới các nước” bao gồm những thể chế qui định hiệu quả, những thể chế mà ủng hộ sự tham gia vào thị trường quốc tế của các doanh nghiệp nước nhà, và những biện pháp tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này thông qua việc mang lại sự tiếp cận với các yếu tố đầu vào dịch vụ quan trọng. Trong chương 1, Dani Rodrik sẽ xem xét một số vấn đề này. Chính sách ngoại thương đã trở nên ngày càng phức tạp trong thập niên vừa qua, và người ta cũng không rõ nơi khởi đầu cũng như điểm kết thúc của nó là ở đâu. Điều mà người ta biết rõ là cách tiếp cận tiêu chuẩn trong hầu hết các sách giáo khoa – tập trung vào các công cụ chính sách được áp dụng tại biên giới các nước và ảnh hưởng đến giá trong nước của hàng hoá hay giá xuất khẩu (thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, và thuế nội địa) – thì thật là hạn hẹp. Trên thực tế, chính sách ngoại thương bao gồm tất cả những chính sách có ảnh hưởng phân biệt chống lại các nhà cung ứng hàng hoá, dịch vụ và yếu tố sản xuất nước ngoài (yếu tố sản xuất bao gồm tri thức, lao động, và vốn); chính sách ngoại thương còn thể hiện trong sự vận hành các thể chế mà ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại một nước. Sự thừa nhận rằng chính sách ngoại thương bao trùm một phạm vi rộng hơn nhiều so với các chính sách tại biên giới ý muốn nói rằng chính phủ các nước và các xã hội dân chính phải có một tiêu điểm rộng lớn và phải xem xét đến các mối quan hệ hỗ tương giữa các lĩnh vực chính sách khác nhau và sự hoạt động cũng như tính hữu hiệu của các thể chế hiện hữu. Kym Aderson trong chương 2 sẽ nhấn manh vào nhu cầu phải có một tầm nhìn bao quát trên bình diện tổng thể nền kinh tế đối với việc cải cách chính sách ngoại thương. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung Bernard Hoekman 2 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Quang Hùng Những yếu tố bổ trợ then chốt thường xác định sự thành công của cải cách chính sách ngoại thương là tỷ giá hối đoái thực và khả năng của chính phủ duy trì được các đối tượng thu ngân sách. Như Howard J. Charz và David G. Tarr sẽ dẫn chứng bằng tư liệu trong chương 3, cho dù các nước có thể duy trì những cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau, việc để cho tỷ giá hối đoái thực lên giá đáng kể theo thời gian thường dẫn đến sự thất bại của cải cách ngoại thương. Chương 4 của tác giả Liam Ebrit, Janet Stotsky và Reint Gropp sẽ xem xét các ý nghĩa về mặt thu chi ngân sách của sự tự do hoá mậu dịch. Số thu thuế nhập khẩu vẫn có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều quốc gia có thu nhập thấp. Khi theo đuổi các cuộc cải cách thuế quan xuất nhập khẩu sâu xa hơn, người ta phải nỗ lực phát triển cơ sở thuế nội địa để thay thế và đảm bảo rằng sự trông cậy vào nguồn thu thuế qua xuất nhập khẩu nhất thiết sẽ không làm biến dạng các động cơ thôi thúc việc phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế. Kinh nghiệm giữa các nước cho thấy rằng cải cách chính sách có thể được thiết kế để duy trì chứ không phải để làm tăng thu ngân sách. Cho dù các nghiên cứu hiện có cho thấy rằng tự do hoá mậu dịch về mặt tổng quát làm giảm nghèo, nhưng một số thành phần trong lớp người nghèo có thể bị thiệt thòi, và trong chương 5, L. Alan Winters sẽ xem xét các mối tương tác giữa cải cách ngoại thương và xoá đói giảm nghèo. Những chương trình cải cách ủng hộ tự do hoá mậu dịch phải được bổ trợ bằng những nỗ lực củng cố mạng lưới an sinh xã hội. Vì một số người nghèo có thể nghèo túng đến nỗi bất kỳ sự giảm thu nhập ít nhiều nào cũng sẽ dẫn đến tình trạng cùng cực, nên điều quan trọng là nhận diện những người nào trong số họ có thể bị ảnh hưởng tiêu cực của cải cách và xác định một hệ thống chính sách thích hợp nhất để hỗ trợ cải cách ngoại thương. Một thông điệp then chốt thể hiện trong các chương của tập tài liệu này là nhu cầu cần phải có sự phân tích không chỉ tập trung vào chính sách ngoại thương theo định nghĩa hẹp mà còn tập trung vào các chính sách và thể chế bổ trợ cần thiết để cải cách ngoại thương làm lợi cho xã hội. Việc phân tích như thế sẽ bao gồm việc chẩn đoán tình hình hiện tại, so sánh trong mối quan hệ với các kiểu mẫu thực tế tốt và các đối thủ cạnh tranh, xác định ý nghĩa về mặt động cơ khuyến khích và về mặt tái phân phối của những chính sách hiện tại và những thay đổi khả dĩ, và nhận diện những hành động bổ trợ cần thiết để làm cho cải cách ngoại thương trở thành một thành phần hữu hiệu của chiến lược tăng trưởng giảm nghèo. Bài đọc thêm Jeffrey Sachs và Andrew Warner, “Cải cách kinh tế và quá trình hội nhập toàn cầu,” Brookings Papers on Economic Activity, 1 (1995): 1-118, là một bài đọc khái quát và nghiên cứu thực nghiệm có ảnh hưởng, trong đó các tác giả đã tìm ra một mối quan hệ đồng biến rõ rệt giữa mở cửa và thành quả kinh tế. Dani Rodrik, Phải chăng toàn cầu hoá đã đi quá xa? (Washington D.C.: Viện Kinh tế Quốc tế, 1997), mang đến một cái nhìn hoài nghi về lợi ích của toàn cầu hoá đối với tăng trưởng và phúc lợi khi không có các thể chế và chính sách cần thiết để quản lý những rủi ro bất lợi. Giải thích về ảnh hưởng của các chiến lược thay thế nhập khẩu hướng nội phổ biến trong những năm 60 và 70 cũng như sự chuyển biến thiên về các chính sách hướng ngoại trong thập niên 80 được Jagdish Bhagwati trình bày trong Chủ nghĩa bảo hộ (Cambridge Mass.: Nhà xuất bản MIT, 1988). Edward Buffie, Chính sách Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung Bernard Hoekman 3 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Quang Hùng ngoại thương tại các nước đang phát triển (Cambridge, U.K.: Nhà xuất bản trường đại học Cambridge, 2001), phân tích chính sách ngoại thương trong một khuôn khổ hoà nhập cho phép có sự thay đổi động học về kinh tế và đưa vào các đặc điểm cơ cấu của các quốc gia đang phát triển. Neil McCulloch, L. Alan Winters và Xavier Cirera, Tự do hoá mậu dịch và đói nghèo: Sổ tay (London: Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Kinh tế, 2001) xem xét toàn diện các mối quan hệ giữa ngoại thương và đói nghèo trong bối cảnh Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung Bernard Hoekman 4 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Quang Hùng Chương 1 CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG LÀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ Dani Rodrik Các nhà kinh tế học được đào tạo để suy nghĩ về cải cách chính sách ngoại thương dựa theo những thay đổi về mức thuế quan và các biện pháp hạn chế định lượng (QRs), và sự thay đổi mức giá tương đối xảy ra do những thay đổi này. Họ dùng các mô hình kinh tế, được bổ sung bằng các giá trị ước lượng về độ co giãn để phân tích ý nghĩa của những thay đổi về thuế quan và các biện pháp hạn chế định lượng đối với sản xuất, tiêu dùng và ngoại thương. Bằng cách cắt xén và sắp xếp thích hợp các mô hình này, họ có thể dự đoán những tác động có thể có đối với công việc làm, đói nghèo và phân phối thu nhập, cân bằng kinh tế vĩ mô và ngân sách chính phủ. Nếu họ có nhiều tham vọng (táo bạo?), họ cũng sẽ phán xét về tính hiệu quả động, tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế dài hạn. Các nhà hoạch định chính sách thường có một cách nhìn khác về cải cách ngoại thương. Đối với họ, những thay đổi thực tế của biểu thuế quan xuất nhập khẩu thường chỉ là một phần nhỏ của tiến trình. Điều quan trọng là sự chuyển biến sâu sắc hơn của kiểu hành vi trong phạm vi khu vực công, và của mối quan hệ giữa chính phủ với khu vực tư nhân và phần còn lại của thế giới. Phạm vi cải cách ngoại thương không chỉ bao trùm mức thuế quan và các biện pháp hạn chế định lượng: Nó ấn định các luật lệ và những kỳ vọng mới về cách thức thiết lập và thực hiện những quyết định chính sách này, thiết lập những ràng buộc và cơ hội mới cho chính sách kinh tế bao quát hơn, tạo ra các thành phần có liên quan (stakeholders) mới đồng thời phế truất những thành phần có liên quan cũ, và dẫn tới một triết lý mới (cùng với những lời lẽ tu từ mới) về việc chính sách phát triển sẽ nhắm vào vấn đề gì. Vì vậy, cải cách ngoại thương đề cập đến nhiều vấn đề hơn chứ không chỉ là sự thay đổi mức giá tương đối: nó dẫn đến những cải cách thể chế thuộc vào loại chủ yếu. Trong ngôn ngữ kinh tế học, cải cách thể chế không chỉ làm thay đổi các thông số chính sách mà còn làm thay đổi các mối quan hệ hành vi. Vì lẽ đó, các hệ quả động và các hệ quả về mặt phân bổ nguồn lực của cải cách ngoại thương trở nên khó nhận thức hơn bằng kiểu phân tích từng là vốn liếng của các nhà kinh tế học ứng dụng trong thương mại. Hành vi động thái của các hộ gia đình và các quyết định đầu tư thay đổi theo những cách thức mà người ta khó có thể theo dõi được nếu không có kiến thức về “các thông số bí ẩn” của nền kinh tế. Khi cải cách được thiết kế chu đáo và nhất quán với nhu cầu về thể chế của nền kinh tế, nó có thể thúc đẩy những mức tăng trưởng kinh tế và tinh thần kinh doanh năng động một cách bất ngờ. Khi không được thiết kế kỹ lưỡng và không phù hợp, cải cách có thể dẫn đến sự đình trệ đáng kinh ngạc. Việc nhìn nhận cải cách ngoại thương là cải cách thể chế giúp ta xác định những tiêu chí để qua đó người ta sẽ đánh giá cải cách. Lập luận chính của tôi trong chương này là: tiêu chí thích hợp không phải là sự mở cửa mà cũng chẳng phải là sự nhất quán với các qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới.1 Tiêu chuẩn so sánh có ý nghĩa quan trọng là mức độ Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung Bernard Hoekman 5 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Quang Hùng đóng góp của cải cách ngoại thương cho việc xây dựng một môi trường thể chế chất lượng cao ở nước nhà. Giả thiết của tôi, được hỗ trợ bằng những chứng cứ thực nghiệm mà tôi sẽ nhắc đến dưới đây, cho rằng: một môi trường thể chế chất lượng cao sẽ mang đến những phần thưởng kinh tế lớn lao hơn so với cơ chế mậu dịch tự do hay việc nhất quán với các qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới. Trên thực tế, có thể có sự lan truyền quan trọng nào đó giữa các mục tiêu này. Ta hãy đưa ra một ví dụ minh họa quan trọng, cơ chế mậu dịch tự do có thể làm giảm sự hối lộ và hoạt động tìm kiếm đặc lợi gắn liền với các biện pháp can thiệp về ngoại thương. Tương tự, các bó buộc về thuế quan của Tổ chức Thương mại Thế giới có thể giúp người ta có khả năng dự đoán được tốt hơn về các động cơ khuyến khích và củng cố quyền sở hữu – hai thuộc tính quan trọng của một khuôn khổ thể chế chất lượng cao. Nhưng cho dù mậu dịch tự do và các qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới có thể góp phần vào sự hình thành các thể chế chất lượng cao, nhưng những thể chế này không phải là một và không giống nhau. Sự phát triển thể chế phải mất thời gian và thường đòi hỏi những chọn lựa phi chính thống và chệch hướng. Một số trường hợp phát triển thu hút chú ý nhất trong thời kỳ hậu chiến tranh là sản phẩm của những thể thức cải cách song hành, tiệm tiến (Rodrik 2000b). Kiểu đầu tư vào xây dựng thể chế cần thiết cho sự nhất quán trọn vẹn với các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới về đánh giá hải quan hay quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) chẳng hạn, có thể chẳng phải là ưu tiên hàng đầu trong công việc của các quốc gia thu nhập thấp mà có những nhu cầu cấp thiết hơn (Finger và Schuler 2000). Vì nguồn nhân lực, năng lực hành chính, và vốn chính trị thì khan hiếm, đặc biệt tại các nước đang phát triển, nên các nhà hoạch định chính sách cần có sự cảm nhận tinh tế về những điều ưu tiên hàng đầu. Một ý nghĩa của mạch lập luận này là: chúng ta nên suy nghĩ về cơ chế mậu dịch tự do và các qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới như những yếu tố sẵn sàng để phục vụ cho các nhu cầu về thể chế của các nước đang phát triển, chứ không phải ngược lại. Hiểu được điều này, chính phủ các nước có thể thực hiện được cải cách ngoại thương một cách tốt đẹp. Những điều kiện tiên quyết về mặt thể chế để phát triển Cải cách giá cả – trong ngoại thương, trên thị trường lao động và thị trường sản phẩm, trong tài chính và trong thuế khoá – là lời kêu gọi đồng thanh của các nhà cải cách trong thập niên 80, cùng với bình ổn kinh tế vĩ mô và tư nhân hoá. Cho đến thập niên 90, người ta thấy rõ ràng là các động cơ khuyến khích không có tác dụng, hoặc chỉ mang đến những kết quả sai lầm khi không có sự hiện diện của các thể chế thỏa đáng. Có ba loại phát triển khác biệt nhau hợp lại giúp đưa thẳng các thể chế vào chương trình hoạt động của các nhà cải cách. Một là sự thất bại thảm hại trong cải cách giá cả và tư nhân hoá ở nước Nga khi thiếu vắng các công cụ pháp lý, qui định và chính trị nâng đỡ. Hai là tình trạng không thỏa mãn kéo dài với những cuộc cải cách định hướng thị trường ở châu Mỹ La tinh và nhận thức ngày càng tăng rằng các cuộc cải cách này đã không chú ý đến các cơ chế bảo hiểm và mạng lưới an sinh xã hội. Thứ ba và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á, cho thấy rằng việc để cho tự do hoá tài chính chạy trước qui định điều tiết tài chính là tạo điều kiện cho thảm hoạ xảy ra. Một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã bộc lộ rõ tầm quan trọng của các thể chế chất lượng Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung Bernard Hoekman 6 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Quang Hùng cao trong việc định hình thành quả kinh tế (cụ thể, hãy tìm đọc Kaufmann, Kraay và Zoido Lobaton 1999; Acemoglu, Johnson và Robinson 2000). Đi theo Lin và Nugent (1995; 2306-07), ta nên suy nghĩ theo nghĩa rộng về các thể chế như “một hệ thống các qui tắc hành xử do con người soạn thảo ra để quản lý và định hình các tương tác giữa con người với nhau, một phần thông qua giúp họ hình thành những kỳ vọng về những điều mà người khác sẽ làm.” Tất cả những nền kinh tế thị trường vận hành trôi chảy đều gắn liền với một hệ thống các thể chế phi thị trường, mà không có nó cơ chế thị trường không thể vận hành thỏa đáng được. Sau đây tôi sẽ trình bày cụ thể năm loại thể chế hỗ trợ thị trường: các quyền đối với tài sản, các thể chế pháp luật qui định, các thể chế bình ổn kinh tế vĩ mô, các thể chế bảo hiểm xã hội, và các thể chế quản lý xung đột. Tôi cũng nhấn mạnh vào tình trạng muôn màu muôn vẻ của các bố trí về thể chế mà tương thích với những thành quả kinh tế ưu việt. Quyền đối với tài sản Như North và Thomas (1973) và North và Weingast (1989), cũng như nhiều người khác đã lập luận, việc thiết lập các quyền đối với tài sản một cách đảm bảo và ổn định là một yếu tố then chốt trong sự phát triển của phương Tây và sự khởi đầu của tăng trưởng kinh tế hiện đại. Người ta lập luận rằng các nhà kinh doanh sẽ không có động cơ gì thôi thúc họ tích luỹ và phát minh trừ khi họ có đủ quyền kiểm soát sinh lợi từ tài sản được tạo ra hay cải thiện nhờ sự tích luỹ và phát minh đó. Lưu ý rằng từ then chốt ở đây là “kiểm soát” chứ không phải “sở hữu”. Quyền sở hữu chính thức đối với tài sản sẽ không có ý nghĩa gì nếu nó không mang đến quyền kiểm soát. Cũng vì lẽ đó, quyền kiểm soát đủ mạnh là có thể làm nên chuyện rồi, thậm chí khi không có quyền sở hữu chính thức đi chăng nữa. Ở nước Nga ngày nay, các cổ đông có quyền sở hữu tài sản nhưng thường thiếu sự kiểm soát hữu hiệu đối với các doanh nghiệp, trong khi tại các doanh nghiệp hương trấn của Trung Quốc, quyền kiểm soát ở đây đã đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dù rằng quyền sở hữu không được phân định rõ ràng. Như những khác biệt trên cho thấy, việc thiết lập “quyền sở hữu tài sản” chẳng phải đơn thuần chỉ là việc thông qua một mảng luật pháp. Bản thân pháp luật không cần mà cũng chẳng đủ để mang đến sự bảo toàn quyền kiểm soát. Trên thực tế, quyền kiểm soát được chống đỡ bằng sự kết hợp giữa pháp luật, sự cưỡng chế tư nhân, các tập quán và truyền thống. Quyền kiểm soát có thể được phân phối một cách rộng rãi hơn hoặc eo hẹp hơn so với quyền sở hữu. Ngoài ra, quyền sở hữu hiếm khi có tính tuyệt đối, ngay cả khi được qui định chính thức bằng luật pháp. Mỗi xã hội tự quyết định phạm vi quyền sở hữu cho phép và những hạn chế có thể chấp nhận đối với việc thực hiện quyền. Quyền sở hữu tài sản trí tuệ được bảo vệ một cách nghiêm ngặt tại Hoa Kỳ và các xã hội tiên tiến nhưng không được bảo vệ tại nhiều quốc gia đang phát triển. Ngược lại, pháp luật về môi trường và qui hoạch tại các nước giàu lại hạn chế khả năng của các hộ gia đình và doanh nghiệp hành động theo ý thích bằng “tài sản” của họ nhiều hơn so với các nước đang phát triển. Tất cả các xã hội đều công nhận rằng quyền sở hữu tài sản tư nhân có thể phải được hạn chế nếu điều đó phục vụ cho một mục đích công cộng lớn lao hơn. Chính định nghĩa về những gì tạo thành một “mục đích công cộng lớn lao hơn” này mới thật là đa dạng. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Phát trịển, thương mại, và WTO Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương trong từng nội dung Bernard Hoekman 7 Biên dịch: Kim Chi Hiệu đính: Quang Hùng Các thể chế qui định giám sát Các thị trường phải chịu thất bại khi những người tham gia thị trường có những hành vi gian lận hay chống cạnh tranh. Cơ chế thị trường thất bại khi chi phí giao dịch làm ngăn cản việc nội bộ hoá các yếu tố ngoại tác công nghệ và các yếu tố ngoại tác khác không phải bằng tiền. Và cơ chế thị trường cũng thất bại khi tình trạng thông tin không hoàn hảo dẫn đến hiện tượng chọn lựa theo hướng bất lợi hay tâm lý ỷ lại. Các nhà kinh tế học thừa nhận những thất bại này của cơ chế thị trườ