Cái tôi trong giao tiếp ngôn ngữ và vận dụng vào dạy ngoại ngữ (Qua tư liệu tiếng Việt)

Tóm tắt: Trong giao tiếp ngôn ngữ, con người luôn mang cái tôi (self) vào trong đó, vì thế, qua giao tiếp bộc lộ cái tôi của người giao tiếp. Cái tôi phản ánh vị trí nhóm cùng các mối quan hệ liên nhân, theo đó, cái tôi bao giờ cũng gắn với một nền văn hóa cụ thể. Việc nghiên cứu cái tôi trong giao tiếp ngôn ngữ gắn với các cộng đồng giao tiếp sẽ góp phần vào dạy-học ngôn ngữ nói chung, ngoại ngữ nói riêng.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 337 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cái tôi trong giao tiếp ngôn ngữ và vận dụng vào dạy ngoại ngữ (Qua tư liệu tiếng Việt), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 579 CÁI TÔI TRONG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ VÀ VẬN DỤNG VÀO DẠY NGOẠI NGỮ (QUA TƯ LIỆU TIẾNG VIỆT) Nguyn Văn Khang Viện Ngôn ngữ học Tóm t t: Trong giao tiếp ngôn ngữ, con người luôn mang cái tôi (self) vào trong đó, vì thế, qua giao tiếp bộc lộ cái tôi của người giao tiếp. Cái tôi phản ánh vị trí nhóm cùng các mối quan hệ liên nhân, theo đó, cái tôi bao giờ cũng gắn với một nền văn hóa cụ thể. Việc nghiên cứu cái tôi trong giao tiếp ngôn ngữ gắn với các cộng đồng giao tiếp sẽ góp phần vào dạy-học ngôn ngữ nói chung, ngoại ngữ nói riêng. Abstract: People always bring their ‘self’ into language interaction, through which their self is expressed. The self reflects an individual's position in a group and interpersonal relationships. The ‘self’, therefore, is always associated with a specific culture. Research on self in language interaction and communication communities will contribute into teaching and learning of languages in general and foreign languages in particular. 1. Cái tôi (ngã, bản ngã), theo cách hiểu đời sống là cái làm nên tính cách riêng biệt của mỗi người. Trong triết học, cái tôi được hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là tôi, bao hàm trong đó những đặc tính để phân biệt tôi với những cá nhân khác. Trong phân tâm học, cái tôi (ego) là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại và chịu ảnh hưởng của tác động xã hội. Theo Sigmund Freud, cái tôi cùng với nó (id) và cái siêu tôi (superego) là ba miền của tâm thức. Cái tôi được hình thành ngay từ khi con người sinh ra và qua tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cái tôi học cách cư xử sao cho kiểm soát được những ham muốn vô thức không được xã hội chấp nhận. Cái tôi có vai trò trung gian hòa giải giữa những ham muốn vô thức và những tiêu chuẩn nhân cách và xã hội. 2. Trong giao tiếp con người mang cái tôi vào trong đó, vì thế, qua giao tiếp bộc lộ cái tôi của người giao tiếp. Trước hết, liên quan đến cái tôi trong giao tiếp hiện có các cách gọi như: “cái tôi riêng” trong mối quan hệ với “cái tôi chung”, “cái tôi độc lập” trong mối quan hệ với “cái tôi tương trợ”. 1) Cái tôi riêng (private self; còn gọi là cái tôi viết thường) thể hiện ở việc tự đánh giá mình. Điều này được thể hiện ở các phát ngôn tự khẳng định mình. Ví dụ: “Ôi! Sao hôm nay mình trình bày tự tin thế nhỉ?” “Là một người đã nhiều năm nghiên cứu về vấn đề này, tôi khẳng định, kết quả của luận văn mà nghiên cứu sinh thực hiện có đóng góp và có giá trị khoa học thực sự”. Cái tôi chung (private Self; còn gọi là cái tôi viết hoa) là cái tôi có được nhờ sự đánh giá từ phía không phải mình. Ví dụ: “Trong cô ấy hôm nay xinh thật!”. “Mọi người nói từ khi có anh làm chủ tịch công đoàn, phong trào văn thể của trường ta khởi sắc hẳn”. 2) Cái tôi độc lập (Independent self) là xu hướng tự khẳng định bản thân của các nhân, theo đó, các cá nhân tồn tại như một thực thể độc lập, không phụ thuộc vào nhóm hay tập thể. Ví dụ về trường hợp tham gia chương trình giải trí trên truyền hình và tự giới thiệu: “Xin chào mọi người! Tôi xin tự giới thiệu: Tôi là Minh, năm nay 32 tuổi, tiến sĩ, chưa lập gia đình”. Việc xưng “tôi” và chỉ giới thiệu tên, tuổi, học vị, trạng thái hôn nhân cho thấy bản lĩnh độc lập, tự tin của người giới thiệu. Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 580 Cái tôi tương trợ (Interdependent self) là xu hướng mong muốn cá nhân được chấp nhận hài hòa với cộng đồng giao tiếp. Ví dụ trường hợp tham gia chương trình giải trí trên truyền hình và tự giới thiệu: “Xin chào mọi người! Em xin tự giới thiệu: Em là Phương, năm nay 23 tuổi, sinh viên, chưa lập gia đình. Em đến từ Trường Đại học Hà Nội. Đây là ngôi trường đào tạo ngoại ngữ uy tín, nổi tiếng của Việt Nam. Em đến đây tham gia chương trình với tinh thần học hỏi. Rất mong được mọi người ủng hộ, động viên, cổ vũ cho em”. Khác với cách giới thiệu của Minh, trong tự cách giới thiệu, Phương xưng “em”, gắn mình với nơi mình đang công tác để giúp khẳng định bản thân và tìm đến sự hòa đồng giữa bản thân với các khán giả bằng lối nói khiêm tốn. Thứ hai, cái tôi phản ánh vị trí nhóm cùng các mối quan hệ của một cá nhân, theo đó cái tôi bao giờ cũng gắn với một nền văn hóa cụ thể. Khi tham gia giao tiếp, cái tôi được bộc lộ, thể hiện nền văn hóa ấy. Điều này giải thích vì sao, nguyên lí cộng tác và nguyên lí lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ được xây dựng từ tư liệu ngôn ngữ -văn hóa phương Tây mặc dù được coi là phổ quát nhưng có những điểm không phù hợp với ngôn ngữ văn hóa phương Đông nói chung, giao tiếp của người Việt nói riêng. Chẳng hạn, R. Lakoff cho rằng, trong giao tiếp có hai nguyên lí tổ chức ngôn ngữ: nguyên lí diễn đạt rõ ràng và nguyên lí lịch sự và nhấn mạnh rằng, trong các bối cảnh văn hoá khác nhau sẽ có thể có sự thể hiện khác nhau về phương thức nhưng về hình thức cơ bản là giống nhau. Nguyên lí diễn đạt rõ ràng thuộc về nguyên lí cộng tác (co-operative principle), gồm 4 quy tắc là:1/ Lượng (quantity; thông tin đưa ra phải thoả mãn nhưng không nhiều so với yêu cầu của hội thoại); 2/ Chất (quality; không nói những điều tin là không đúng và thiếu căn cứ, không có bằng chứng xác thực); 3/ Quan hệ (be relevant; những điều nói ra phải có liên quan đến hội thoại); 4/ Cách thức (maner; diễn đạt rõ ràng, khúc chiết, có lí có tình; tránh tối nghĩa, tránh mập mờ). Nguyên lí lịch sự gồm 3 quy tắc là, không áp đặt, để ngỏ sự lựa chọn và tăng cường tình cảm bằng hữu:1/ Không áp đặt (Don't impose) là không áp đặt đối với người nghe, để người nghe có thể hành động theo ý muốn của mình); 2/ Để ngỏ sự lựa chọn (Offer optionality) tức là để cho người nghe tự quyết định, tránh được trách nhiệm mang tính áp đặt từ phía người nói); 3/ Thể hiện tình bằng hữu (Encourage feeling of cammaraderie) dùng trong giao tiếp bằng vai phải lứa, trong quan hệ thân hữu, giao tiếp của những người yêu nhau, của vợ chồng; tỏ ý quan tâm và tin cậy ở nhau). Nhìn vào giao tiếp của người Việt với tiếng Việt với văn hóa Việt Nam, có thể thấy, người Việt hay đưa ra lời giải thích, nhận xét trước hoặc sau nội dung cần thông tháo (ví dụ lời hỏi hoặc lời đáp) mà nếu chiểu theo nguyên lí cộng tác thì bị là thừa do nói quá và theo lí thuyết lịch sự là không lịch sự vì đe dọa thể diện, áp đặt phải theo, không cho cơ hội lựa chọn. Ví dụ: Ví dụ 1: Liễu và Hạnh cùng đi siêu thị. Đến siêu thị, Liễu phát hiện ra mình quên ví (không mang tiền theo), và dưới đây là cuộc đối thoại của họ xung quanh việc quên ví: Liễu: “Mình quên mất ví rồi. Trước khi đi mình đã cho tiền vào ví, thế nào, lúc thay đồ mình lại quên. Chán ơi là chán”. Hạnh: “Lấy tiền của mình cũng được mà. Mình mang nhiều. Hôm qua mới lĩnh được một khoản tương đối. Mình cũng chỉ định mua vài thứ thôi. Thức ăn còn đầy trong tủ. Mình chỉ mua vài thứ lặt vặt thôi” Liễu: “Ngại quá. Thôi cho mình mượn nhé. Về tôi sẽ chuyển ngay cho bà. Ông xã mình dạo này cũng đang phất, vừa nộp thuế cao ngất ngưởng cho hai mẹ con. Hi hi” Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 581 Với nội dung cuộc thoại trên, Liễu chỉ cần hỏi hạnh “có tiền cho mình vay” và hạnh trả lời “có và đồng ý cho vay” là đủ. Nhưng cả hai đều “vi phạm” là “nói dài và thừa”, đó là: - Liễu thì cố gắng giải thích rằng: 1/Việc quên tiền là không cố ý (chỉ là do thay đồ); 2/ Nếu vay tiền của Hạnh thì sẽ trả ngay (hứa sẽ trả ngay); 3/ Liễu có đủ thậm chí thừa tiền để trả (vì chồng mới chuyển tiền cho). - Hạnh thì cố gắng nói rõ: 1/ Sẵn sàng cho vay (lấy mà dùng; hào hiệp); 2/ Có đủ tiền để cho vay (mang nhiều tiền, nhưng chỉ mua lặt vặt); 3/ Chậm trả cũng được (mới có được một khoản tiền). Cách giao tiếp này thể hiện nét văn hóa Việt là ưa giải thích, chứng minh thuyết phục người giao tiếp nhằm giúp cho NGƯỜI hiểu TA bằng việc thể hiện cái tôi của mỗi bên: đối với Liễu chỉ là do sơ xuất, nếu được vay thì có đủ tiền để trả; đối với Hạnh thì sẵn sàng cho vay, không hẹp hòi gì và việc cho vay không ảnh hưởng gì đến kế hoạch mua bán của mình, thậm chí “chậm trả” cũng không sao. Ví dụ 2: Bình tìm đến nhà Hằng. Nhưng khi đến khu nhà Hằng ở, Bình không nhớ được số nhà và lối vào. Bình liền ghé vào một quán nước cạnh đó và cất tiếng hỏi: Bình: “Chị ơi, cho hỏi chút, chị có biết nhà Hằng ở đây không? Chỉ giúp em với. Lâu không đến nên không nhớ ra”. Người bán quán: “Hằng nào? Đây nhiều Hằng lắm. Có phải cái cô Hằng dạy ở trường gì ấy nhỉ mới li hôn với chồng mà có đứa con đang học mẫu giáo nhà tầng 4, số 420. Hình như cô ấy đang đi đón con. Cậu cứ chờ một lát là cô ấy về đấy”. Bình: “Ôi! Nhớ ra rồi, đúng là 420. Đi cầu thang 2. Thế chồng chị Hằng có hay về thăm con không chị?”. Người bán quán: “Chả thấy đâu. Chỉ tội cho thằng bé con. Thế cậu là thế nào với cô ấy”. Bình: “Không có gì đâu. Em cùng trường, đến để trao đổi với Hằng về công việc thôi. Chào chị nhé”. Cuộc thoại trên cho thấy, chỉ một chủ đề “hỏi địa chỉ” và “trả lời, cho biết địa chỉ” nhưng lại “móc” vào đó rất nhiều tình tiết tưởng như thừa mà ngược lại là nét văn hóa Việt, đó các cá thể không thể tách khỏi cộng đồng, tức trong TA có NGƯỜI và trong NGƯỜI có TA: - Bình: 1/ hỏi địa chỉ nhà Hằng; 2/ tỏ ra là người quen Hằng (đã dến nhưng quên số nhà); 2/ nhân cơ hội muốn tìm hiểu thêm cuộc sống riêng của Hằng; 3/ tỏ ra rằng việc tìm gặp Hằng của mình là trong sáng (giải thích “không có gì đâu”; thuần túy là công việc). - Người bán nước: 1/ cho biết địa chỉ; 2/ tỏ ra là mình biết rất rõ nhân vật Hằng (nghề nghiệp; tình trạng gia đình; hiện đang làm gì); 3/ tìm hiểu mối quan hệ của người đang hỏi địa chỉ). Thứ ba, câu hỏi đặt ra là, phát huy cái tôi như thế nào trong giao tiếp gắn với văn hóa của mỗi cộng đồng giao tiếp. Như đã nêu, cái tôi riêng-cái tôi chung, cái tôi độc lập-cái tôi tương trợ là phổ quát chung cho mọi nền văn hóa, tham gia vào và thể hiện trong giao tiếp. Tuy nhiên, chúng được cụ thể hóa ở từng nền văn hóa với nghĩa rộng của khái niệm này: rộng là cộng đồng lớn như khu vực, quốc gia, dân tộc; hẹp là cộng đồng nhỏ như tại một địa phương, một nhóm người cụ thể. Chẳng hạn, nếu tách văn hóa thế giới làm hai nửa Tây-Đông (văn hóa phương tây và văn hóa phương Đông) thì theo đó, cái tôi trong giao tiếp cũng thể hiện khác nhau: Văn hóa phương Tây luôn cổ súy cho tính tự do, độc lập trong hành động cá nhân và tự kiểm soát cá nhân. Theo đó, cái tôi độc lập được đề cao. Nói cách khác, nền văn hóa phương Tây đề cao, cổ súy chủ nghĩa cá nhân vì thế cái tôi độc lập nổi trội hơn và thể hiện rõ trong giao tiếp. Đây là lí do giải thích vì sao, trong quy tắc “không áp đặt” (Don't impose) thuộc nguyên lí lịch sự, từ cứ liệu Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 582 ngôn ngữ phương Tây, R. Lakoff đã cho rằng, không áp đặt đối với người nghe, tức là, người nghe có thể hành động theo ý muốn của mình; người nói không đưa ra hoặc không thỉnh cầu về những quan điểm riêng tư, tránh đề cập đến đời sống riêng tư (thu nhập, thói quen, tình yêu, hôn nhân, giới tính, chính trị, tôn giáo, khó khăn về kinh tế, bệnh tật,); tránh sử dụng ngôn từ thô lỗ, tục tằn, tránh dùng tiếng lóng, thổ ngữ. Văn hóa phương Đông, với ảnh hưởng Nho giáo, Phật giáo coi trọng giá trị chuẩn mực cộng đồng, nên chú trọng tới cái tôi tương trợ. Điều này thể hiện trong các thành ngữ, các khuôn ngôn từ định hình trong giao tiếp của người Việt luôn nghiêng về cộng đồng trong mối quan hệ chằng chịt. Điều này được thể hiện trong các thành ngữ tục ngữ và các cách diễn đạt đã thành khuôn (stereotype) giao tiếp. Ví dụ: đánh chó ngó chủ; vuốt mặt nể mũi; bán anh em xa mua láng giếng gần; một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp; góc chiếu giữa đình; xấu chàng hổ em; Được như vậy thì gia đình cũng mát mặt.. Làm xấu mặt họ hàng/cơ quan.. Có được/đạt được như vậy là nhờ. Văn hóa đề cao cộng đồng của người phương Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, được thể hiện trong giao tiếp hỏi han khi gặp nhau của người Việt: Người Việt gặp nhau là hỏi thăm như hỏi về tuổi, hỏi về tình trạng hôn nhân, hỏi về cuộc sống gia đình, hỏi về công việc, về mối quan xã hội, nói chung là, có thể hỏi tất cả những gì liên quan đến đối tượng giao tiếp và coi đó là việc làm thu hẹp khoảng cách (D) liên nhân trong giao tiếp. Ví dụ: Khi tham gia giảng dạy hay hội họp, tôi thường nhận được sự quan tâm của một số người với câu hỏi “Thầy đang công tác ở đâu ạ?”. Sau khi trả lời rằng, tôi làm việc ở Viện Ngôn ngữ học thì lập tức sẽ có các phát ngôn hỏi hoặc nhận xét theo các “hướng”: Hướng quan tâm đến nơi tôi làm việc: “Viện ngôn ngữ thầy có biết (một người cụ thể nào đó như GS. A, tiến sĩ B) không?” “Viện Ngôn ngữ nghe nói đang có vấn đề phải không?” “Viện ngôn ngữ mà có cuốn Từ điển tiếng Việt ấy à?” “Viện Ngôn ngữ bây giờ ai làm viện trưởng nhỉ?” “Viện Ngôn ngữ có nhiều đề tài không ạ?” v.v. Hướng quan tâm đến cuộc sống của tôi: “Cô cũng là giáo viên hả thầy?” “Anh chị nhà thầy chắc trưởng thành rồi? Có ai theo nghề của thầy không?” “Thầy năm nay bao nhiêu tuổi rồi? Chắc thầy cũng sắp về hưu rồi nhỉ?” “Giáo sư như thầy chắc là lương cao lắm nhỉ?” “Thầy chắc hay đi xa nhà lắm nhỉ?” v.v. Cách giao tiếp theo kiểu quan tâm này là rất bình thường đối với người Việt, thậm chí, còn tỏ ra thú vị, nhưng sẽ làm “nản lòng” những người phương Tây cũng như những người Việt có xu hướng Tây học. Vì thế, Phạm Thị Hồng Nhung (2013) có lí khi cho rằng, trong giao tiếp của người Việt, xu thế nghiêng về cái tôi tương trợ, bởi, người Việt coi cái tôi tương trợ như một phần của quan hệ xã hội và theo đó hành vi của mình chịu sự chi phối, sự nhìn nhận, đánh giá của người khác. Đến lượt mình, “người khác” này người khác trở thành một thành tố bên trong ngữ cảnh mà ở đó mỗi cá nhân được nối kết điều chỉnh sao cho thích nghi, phù hợp với cái chung. Đây cũng là nguyên do của một cuộc tranh luận chưa có hồi kết thúc về lịch sự (Politeness) trong giao tiếp khi Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 583 mà có luồng ý kiến cho rằng, lịch sự của phương Tây là lịch sự chiến lược, còn lịch sự phương Đông là lịch sự chuẩn mực (Nguyễn Văn Khang, 2012). Theo chúng tôi, đã là phổ quát thì cả hai cái tôi (cái tôi cá nhân và cái tôi tương trợ) cũng có cả hai kiểu kiểu lịch sự (lịch sự chuẩn mực và lịch sự liến lược) luôn được xuất hiện trong giao tiếp, tức là, không có “duy nhất” mà chỉ có “nổi trội”. Theo đó, cái tôi tương trợ (cái tôi viết hoa) trong giao tiếp của người Việt tỏ ra nổi trội hơn. Chẳng hạn, trở lại ví dụ giới thiệu ở trên, người Việt khi giới thiệu ít khi chỉ nói ngắn gọn theo kiểu phương Tây. So sánh cách tự giới thiệu giữa hai nền văn hóa Tây-Đông: Văn hóa phương Tây: I’m Rose Smith. You can tell me Rose. I’m a teacher. (* dẫn từ Nguyễn Thị Hồng Nhung, 2013) Văn hóa phương Đông (Việt Nam): B: Chào thầy! A: Chị là. B: Dạ, Em là Hà. Thầy đừng gọi em thế, em sợ lắm. Em là nghiên cứu sinh, học trò lười của thầy Đại, bạn của thầy ấy mà. Thầy có hay gặp thầy Đại không ạ. Thầy Đại hay nhắc đến thầy lắm đấy. Nhân vật nghiên cứu sinh tên là Hà đã có chiến lược trong giao tiếp, để kéo gần khoảng cách giao tiếp, làm cho thân mật hơn: 1/ Khéo đề nghị thầy thay đổi cách xưng hô: hãy gọi là em, đừng gọi là chị; 2/ “móc nối” hay quy chiếu vào một mối quan hệ xã hội: mà “trung tâm” là thầy Đại). Sự quy chiếu ở đây chính là chỉ ra các mối liên hệ liên quan, nhằm làm xích gần mối tương tác giao tiếp. Có thể nói, giao tiếp gắn với cái tôi, mà cái tôi là sự thể hiện của một nền văn hóa. Ví thế, có thể thông qua đó hiểu được hành vi giao tiếp trong những nền văn hóa đó. 3. Trong dạy và học ngôn ngữ nói chung, ngoại ngữ nói riêng, không thể không quan tâm đến văn hóa, thậm chí còn dành cho văn hóa sự quan tâm đặc biệt. Nhất là đối với ngoại ngữ, văn hóa là một thành tố được đặc biệt chú trọng. Đã nói đến văn hóa thì không thể không nói đến cái tôi, bởi cái tôi gắn với giao tiếp. Vấn đề còn lại là nên vận dụng như thế nào? Ở đây chúng tôi không bàn đến vai trò hay nội dung dạy-học cái tôi trong giao tiếp mà chỉ chỉ nêu ra điều cần thảo luận, đó là: Khi giao tiếp bằng ngoại ngữ, có nhất thiết phải triệt để theo cái tôi của nền văn hóa có ngôn ngữ đó hay có thể vận dụng linh hoạt trong giao tiếp, tức là, giao tiếp bằng ngoại ngữ với cái tôi của nền văn hóa mình. Cụ thể, người Việt có thể sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp theo kiểu văn hóa Việt được không? Như vậy, liên quan đến cái tôi, sẽ có ba khả năng xẩy ra trong giao tiếp bằng phi bản ngữ: (1) Giao tiếng phi bản ngữ bằng chính nền văn hóa của ngôn ngữ đó. (2) Giao tiếp phi bản ngữ bằng nền văn hóa của người sử dụng ngoại ngữ. (3) Giao tiếp phi bản ngữ có thể bằng nền văn hóa của ngôn ngữ đó pha trộn với nền văn hóa của người sử dụng ngoại ngữ. Phải chăng là phải tìm đến (3) để có sự linh hoạt trong sử dụng ngôn ngữ. Chẳng hạn: Trở lại ví dụ “hỏi han” ở trên: có thể “hỏi han mọi thứ” bằng tiếng Anh khi với người Việt giao tiếp với nhau và không thể như thế khi giao tiếp với người bản ngữ. Lí do là vì, chiến lược hội thoại khác nhau phản ánh hai quy ước văn hoá xã hội khác nhau. Nếu không sẽ xẩy ra xung đột. Một ví dụ khác, Linda Wai Liyong (1982) đã tiến hành nghiên cứu sự xung đột tương tác lời nói giữa dân tộc nói tiếng Hán và dân tộc nói tiếng Anh và tác giả đã có những phát hiện như sau: - Trong câu phức của tiếng Hán, nguyên nhân ở trước, kết luận hoặc luận điểm trung tâm ở sau. Còn trong tiếng Anh thì ngược lại. So sánh: Tiếng HánX ?Y Nếu X thì Y Tiếng Anh: Y if X : Y.. nếu Y.. Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 584 Qua điều tra, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của sự khác nhau này: - Người Trung Quốc đề cao sự hoà hợp, cố gắng tránh “cọ sát” lẫn nhau. Việc tránh sự lỗ mãng có thể xảy ra ở bản thân để ép buộc, làm cho khách thể giao tiếp khó nghĩ, khó xử. Chiến lược tránh sự ép buộc hoặc thể hiện sự tôn trọng chính là lịch sự âm mà S. Levison đã nêu ra. - Về quan niệm “thể diện”, do sợ khách thể giao tiếp không đồng ý cho nên nêu trước lí do, để cho khách thể giao tiếp có “khoảng trống” suy nghĩ và khi nào cảm thấy chín muồi mới đề xuất yêu cầu. - Về chiến lược giao tiếp, nếu đề xuất yêu cầu trước sau nó nêu lí do thì có thể có khả năng không gây được chú ý. Cũng theo Linda Wai Liyong, cách nói nêu lí do trước, sau đó mới nêu yêu cầu của người Trung Quốc làm cho những người Anh nói tiếng Anh khi giao tiếp với người Trung Quốc cảm thấy rất khó nắm bắt được ý đồ của người Trung Quốc. Ba khả năng xẩy ra trong giao tiếp bằng phi bản ngữ nêu trên liên quan đến cái tôi cũng là điều chúng tôi muốn trao đổi trong dạy-học ngoại ngữ hiện nay. Đó là việc “thực tế hóa” dạy học ngoại ngữ trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự đa dạng, cởi mở về văn hóa, cởi mở trong sử dụng ngôn ngữ. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội. Nxb Giáo dục Việt Nam, 2013. 2. Phạm Thị Hồng Nhung, Xu thế nghiêng về cái tôi tương trợ trong giao tiếp của người Việt, Ngôn ngữ số 2, 2013 3. Triandis Triandis H.C, The self and social behaviour in differing cultural contexts, Psychological Review, 96 (3), 506-520, 1989. 4. Lustig, M.W.& Koester, J. (2010). Intercultural Competence: interpersonal communication across cultures. Person Education, 2010. 5. Penbek, S.et al., Intercultural Competence: A Study about the Intercultural Sensitivity of