Các loại pin hóa
chất mới có thể
tăng lượng xe chạy
điện (Electric
Vehicle - EV) lưu
thông trên đường. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không tối ưu được
hiệu suất của chúng, giống như trên các pin lithium-ion cũ.
Được sự tài trợ của Dự án nghiên cứu nâng cao về Năng
lượng, viết tắt là ARPA-E, một liên minh của hai công ty
đang hướng tới mục tiêu thiết kế các cảm biến nhỏ hơn, nhẹ
hơn, có thể làm cho pin lithium-ion nhỏ hơn, rẻ hơn, và an
t]oàn hơn.
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm biến: Chìa khoá cho Pin EV, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cảm biến: Chìa khoá cho
Pin EV
Các loại pin hóa
chất mới có thể
tăng lượng xe chạy
điện (Electric
Vehicle - EV) lưu
thông trên đường. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không tối ưu được
hiệu suất của chúng, giống như trên các pin lithium-ion cũ.
Được sự tài trợ của Dự án nghiên cứu nâng cao về Năng
lượng, viết tắt là ARPA-E, một liên minh của hai công ty
đang hướng tới mục tiêu thiết kế các cảm biến nhỏ hơn, nhẹ
hơn, có thể làm cho pin lithium-ion nhỏ hơn, rẻ hơn, và an
t]oàn hơn. Các thiết bị này được chế tạo bằng sợi quang học
hoặc vật liệu màng mỏng, có thể được tích hợp bên pin, cho
phép phát hiện sự thay đổi nhiệt độ (tránh tình trạng quá
nóng, gây cháy, nổ) và ước lượng chính xác dung lượng
hiện thời của pin.
Tại sao cần phải thực hiện hệ thống cảm biến trong từng tế
bào pin? Trong các xe điện hoặc xe lai hiện nay có chứa hàng
trăm tế bào pin đơn nối với nhau, cùng với một loạt các thiết
bị điều khiển. Các cảm biến, như nhiệt độ, điện áp, hiện
tại đặt bên ngoài, thu thập dữ liệu và chuyển tới thiết bị điều
khiển. Nhưng điều đó tiết lộ chính xác mọi thứ đang diễn ra
bên trong các tế bào pin. Chuyện gì xảy ra nếu các tế bào pin
trở lên nóng bất thường?
Việc thêm các thành phần điều khiển bên ngoài có thể làm
tăng đáng kể kích thước của gói pin. Đồng thời cũng không
đáp ứng được nhu cầu về tối ưu hiệu suất hệ thống. Nếu việc
giám sát được thực hiện tại mỗi tế bào trong một gói pin, nó
giúp tối ưu kích thước và hiệu suất của pin, cắt giảm trọng
lượng và chi phí,
Đương nhiên
việc này cũng
hoàn toàn
không dễ
dàng. Việc đo
đạc bên trong
pin là rất khó, do môi trường điện, ăn mòn và nhiệt đố. Hệ
thống cần xây dựng phải nhỏ, rẻ, và miễn dịch với hiện tượng
phóng tính điên. Điều đó gợi ý các nhà nghiên cứu của
PARC chuyển sang cảm biến sợi quang.
Cảm biến sợi quang cho phép phát hiện sự thay đổi của môi
trường thông qua những thay đổi của bước sóng, từ đó xác
định sự biến đổi kích thước, nhiệt độ Một máy dò cho phép
phát hiện sự thay đổi kích thước ¼ bước sóng được thiết kế.
Vì sự hạn chế trong môi trường đo, nên máy dò này có chi
phí rẻ hơn rất nhiều, chỉ vài trăm Đô, so với máy dò thông
thường giá thành 10.000 Đô, sử dụng tia laser và mảng thiết
bị tích điện kép. Các máy dò mới bao gồm một bộ lọc quang
học có thể chuyển đổi sự thay đổi bước sóng để một sự thay
đổi ở vị trí chùm ánh sáng chiếu trên một mảng diode tách
sóng quang nhỏ. Các cảm biến sợi quang có thể đọc những
thay đổi bước sóng nhỏ như 50 femtometers. Điều này có
nghĩa là họ có thể phát hiện được những thay đổi tinh tế về
mặt môi trường thông qua sự thay đổi bước sóng.
Một trong những mục tiêu đặt ra là tập trung vào các cảm
biến trong pin, tức là cho một môi trường cụ thể. Các nhà
nghiên cứu cũng xây dựng các thuật toán xử lý dữ liệu thô từ
các cảm biến và xử lý trung tâm. Khi có thông tin, ví dụ tế
bào 5 nóng bất thường, hệ thống xử lý trung tâm sẽ ra lệnh
giảm tải hoặc tắt tế bào 5, và tiến hành thay đổi cấu trúc cung
cấp năng lượng trong gói pin. Trong khuôn khổ hợp tác
nghiên cứu, các kết quả trên sẽ được tiến hành thử nghiệm
trên một số sản phẩm của LG Electronics.
Một hệ thống khác cũng đang được GE Global Research phát
triển với nguồn tài trợ 3 triệu USD từ ARPA-E. GE đã bán
cảm biến nhiệt độ cho pin xe hơi, nhưng cảm biến màng
mỏng đang là hướng nghiên cứu thay thế của họ. Hiện tại,
các cảm biến nhiệt độ nằm ở mép pin, và như thế kết quả thu
được sẽ không đủ tin cậy. Các cảm biến mới, đủ mỏng để
nằm giữa các tế bào pin, cho phép đọc nhiệt độ và áp suất bề
mặt của tế bào pin.
Dữ liệu cảm biến thu được sẽ được kết hợp với mô hình phần
mềm cho phép dự toán tình trạng và tuổi thọ của tế bào pin.
Đồng thời cũng xác định số lượng cảm biến cần thiết cho một
pin, hay mô hình phân bố năng lượng và vị trí của tế bào
trong gói pin.
Tại thời điểm này, các nghiên cứu đang được tiến hành. Sản
phẩm thực tế có lẽ sẽ phải chờ từ 2 đến 3 năm nữa. Khi được
áp dụng, các nghiên cứu trên có thể tạo ra sự thay đổi trong
xu hướng sử dụng thiết bị di chuyển, từ nhiên liệu hóa thạch
sang điện, khi năng lượng được phân phối hợp lý hơn, kích
thước nhỏ hơn và thời gian sử dụng lâu hơn. q