Cảm biến kiểu tụ không tiếp xúc đo những thay đổi về tính
chất điện tương ứng thường gọi là cảm biến điện dung. Điện
dung mô tả hai vật dẫn điện cách nhau một khoảng phản ứng
lại với sự chênh thế giữa chúng. Đặt một điện thế vào hai đầu
của một điện trở ta được một tụ điện giữa hai vật dẫn đó (một
đầu dương, một đầu âm), hình 1.
Các cảm biến kiểu tụ (hay điện dung) sử dụng điện thế xoay
chiều tạo ra điện tích trái dấu ở phía của bản cực. Sự dịch
chuyển của điện tích tạo ra dòng xoay chiều và được cảm
biến phát hiện (hình 2).
11 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm biến điện dung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cảm biến điện dung
Cảm biến kiểu tụ không tiếp xúc đo những thay đổi về tính
chất điện tương ứng thường gọi là cảm biến điện dung. Điện
dung mô tả hai vật dẫn điện cách nhau một khoảng phản ứng
lại với sự chênh thế giữa chúng. Đặt một điện thế vào hai đầu
của một điện trở ta được một tụ điện giữa hai vật dẫn đó (một
đầu dương, một đầu âm), hình 1.
Các cảm biến kiểu tụ (hay điện dung) sử dụng điện thế xoay
chiều tạo ra điện tích trái dấu ở phía của bản cực. Sự dịch
chuyển của điện tích tạo ra dòng xoay chiều và được cảm
biến phát hiện (hình 2).
Hình 1. Điện trường
được tạo ra khi ta áp thế
Hình 2. Điện áp xoay
chiều làm dịch chuyển
vào hai phía của vật dẫn các điện tích giữa các
vật thể, tạo ra dòng xoay
chiều và được phát hiện
bới cảm biến.
Điện dung = (Điện tích x Hằng số điện môi) / Khoảng cách
giữa hai phân cực
Dòng điện tích được xác đinh bởi giá trị điện dung, và tỷ lệ
thuận với diện tích bề mặt và tỷ lệ nghịch với khoảng cách
giữa hai vật thể. Điện dung dĩ nhiên cũng phụ thuộc vào đặc
trưng điện môi của vật liệu giữa hai bản cực, phương trình 1.
Trong các ứng dụng cảm biến kiểu tụ tiêu biểu, đầu dò hoặc
cảm biến là một vật thể còn vật thể còn lại là vật cần được
phát hiện (cách sử dụng cảm biến kiểu tụ để xác định vật liệu
nhựa hoặc chất cách điện sẽ được mô tả ở số tiếp). Giả sử,
kích thước của cảm biến và của vật cần xác định là cố định,
thì sự thay đổi về điện dung sẽ là sự thay đổi về khoảng cách
giữa đầu dò và vật thể đó. Phần điện tử được hiệu chỉnh để
tạo ra các thay đổi đặc biệt về điện thế sao cho nó phù hợp
với sự thay đổi về điện dung, nghĩa là sự thay đổi về khoảng
cách. Độ nhạy của cảm biến chính là lượng điện thế thay đổi
so với sự thay đổi một lượng điện dung tương ứng. Độ nhạy
thông thường vào khoảng 1.0 V/100 µm. Với cách hiệu
chuẩn này, nếu đo được thế lối ra là 2 V thì đầu dò và khoảng
cách đã dịch chuyển một quãng đường là 200 µm.
(a) (b) (c)
Hình 3. a) Cấu kiện của đầu dò cảm biến kiểu tụ; b) phần
nhạy điện trường trong cảm biến kiểu tụ và c) Hình dạng của
vùng gác trong vùng nhạy điện trường.
Hội tụ phần điện trường
Khi đặt một chênh thế trên một điện trở nào đó, điện trường
sẽ lan tỏa trên bề mặt. Trong một cảm biến điện dung, điện
thế được đặt lên trên diện tích cảm nhận của đầu dò (hình 3 a,
3b). Với các phép đo có độ chính xác cao, điện trường từ
diện tích cảm nhận cần tập trung trong khoảng không gian
giữa đầu dò và vật cần phát hiện. Nếu điện trường thay đổi
giữa hai vật thể (đầu dò và vật cần phát hiện) ta có thể xác
định được sự thay đổi về vị trí của vật đích (cần phát hiện).
Một kỹ thuật gọi là “gác” ("guarding") được áp dụng để ngăn
chặn sự lan tỏa của điện trường. Để tạo ra vòng gác, mặt sau
và mặt cảm nhận được phủ một lớp dẫn điện có vai trò giữ
cho điện thế giống như trong vùng cảm nhận (hình 3a, 3c).
Khi đặt điện thế vào vùng cảm nhận, mạch phân tách sẽ đặt
vào một điện thế bằng với giá trị trên “gác”. Do không có sự
khác nhau về thế giữa khu vực nhạy cảm và khu vực gác, nên
không có điện trường ở đây. Bất kỳ vật dẫn nào ở cạnh hoặc
ở sau đầu dò cũng sẽ tạo ra một điện trường với vùng gác chứ
không phải vùng nhạy cảm. Chỉ có vùng nhạy cảm là được
phép tạo ra một điện trường với vật đích.
Hình 4. Độ nhạy của cảm biến/thế lối ra. Độ nhạy
(A) - độ dốc của đường biểu diễn 1 V/0.05 mm. Sai
số độ nhạy (B) xảy ra khi độ dốc thực tế sai khác với
độ dốc lý tưởng. Sai số bù (C) một giá trị không đổi
thêm vào trong mọi phép đo. Sai số tuyến tính (D) là
khi dữ liệu phép đo không nằm trên một đường
thẳng.
Một vài giá trị cần chú ý khi sử dụng
Độ nhạy: biểu thị độ lớn của sự thay đổi điện thế lối ra khi
thay đổi khoảng cách giữa đầu dò và đích. Độ nhạy thông
thường là 1 V/0.1 mm. Khi vẽ đường phụ thuộc giữa thế và
khoảng cách, ta có thể tính được giá trị này (hình 4A). Độ
nhạy hệ thống được thiết lập trong quá trình chuẩn máy. Khi
độ nhạy lệch khỏi giá trị mong muốn người ta gọi đó là sai số
nhạy, sai số khuếch đại hoặc sai số thang. Vì độ nhạy chính
là độ dốc của đường đặc tuyến nên sai số độ nhạy thường
được biểu thị theo % của độ dốc, tức là so sánh với độ dốc lý
tưởng với độ dốc thực, hình 4B.
Sai số bù (hình 4C) xảy ra khi thêm một giá trị không đổi vào
thế lối ra của hệ thống. Hệ thống đo điện dung thường lấy giá
trị “0” lúc thiết lập, loại bỏ mọi sai số bù khác trong quá trình
chuẩn máy. Tuy nhiên, sai số bù thật sẽ khác giá trị đó và
được gán vào mỗi phép đo cụ thể. Sự thay đổi nhiệt độ là
nhân tố chính trong sai số bù.
Độ nhạy có thể thay đổi một chút giữa hai điểm bất kỳ của dữ
liệu. Sự tác động của sự thay đổi này được gọi là sai số tuyến
tính (hình 4D). Các đặc tính tuyến tính là phép đo độ lệch của
tín hiệu lối ra so với đường thẳng đặc tuyến.
Để tính sai số tuyến tính, dữ liệu hiệu chỉnh cần được so sánh
với đường “fit” chuẩn. Đường so sánh chuẩn này được lấy từ
dữ liệu bằng phương pháp bình phương tối thiểu. Độ lớn của
sai số ở điểm trên đường chuẩn xa nhất so với đường lý
tưởng chính là sai số tuyến tính (thường được tính bằng phần
trăm trên toàn thang (%/F.S.). Giả sử sai số lớn nhất của một
điểm đạt giá trị 0.001 mm và toàn thang lúc chuẩn là 1 mm,
thì sai số tuyến tính là 0.1%.
Cần chú ý rằng sai số tuyến tính không ảnh hưởng tới độ
nhạy. Nó chỉ là phép đo độ thẳng của đường đặc tuyến chứ
không phải đo độ dốc của đường này. Một hệ thống với sai
số độ nhạy lớn vẫn có thể có độ tuyến tính rất tốt.
Vùng sai số là kết hợp giữa sai số độ nhạy và sai số tuyến
tính. Đây là phép đo lỗi tuyệt đối lớn nhất trong khoảng đo
lường. Giá trị này được tính bằng cách so sánh điện thế lối ra
ở một khoảng cách đặc biệt giữa đầu dò và vật đích. Sai số
lớn nhất tính từ sự so sánh này được ghi vào trong vùng sai
số (bảng 1). Theo đó, sai số lớn nhất xảy ra ở 0.50 và vùng
sai số (in đậm) là- 0.010.
Hình 5a. Ồn từ cảm biến có giải tần 15 kHz Hình 5b. Ồn từ
cảm biến có giải tần 100 kHz
Dải tần được hiểu là tần số mà ở đó lối ra giảm xuống tới - 3
dB, và còn gọi là tần số ngắt (cutoff frequency). Các cảm
biến dải (tần) rộng có thể phát hiện được các chuyển động
với tần số cao và độ đáp ứng nhanh, với độ lớn tín hiệu vượt
trội khi được sử dụng trong các hệ thống sử dụng động cơ trợ
động điều khiển kín. Trong khi đó, cảm biến có dải tần thấp
lại làm giảm ồn (nhiễu) lối ra nghĩa là làm tăng độ phân giải.
Một vài nhà sản xuất cho phép lựa chọn dải tần để cho độ
phân giải là cực đại và thời gian đáp ứng nhanh nhất.
Độ phân giải được hiểu là giá trị đo nhỏ nhất có thể phát hiện
được với độ tin cậy cao. Độ phân giải của một hệ đo phải tốt
hơn độ chính xác cuối mà phép đo yêu cầu. Nếu chúng ta cần
biết phép đo trong khoảng 0.02 µm, thì độ phân giải của hệ
thống phải tốt hơn 0.02 µm. Yếu tố cơ bản trong xác định độ
phân giải là ồn (nhiễu) điện. Ồn điện xuất hiện trong thế lối
ra là nguyên nhân sai số tức thời trong tín hiệu thu được.
Ngay cả khi đầu dò và vật đích cách nhau một khoảng lý
tưởng, thì thế lối ra của động cơ vẫn đóng góp vào những ồn
với giá trị có thể đo được và giống như thể khoảng cách đó
thay đổi vậy. Nếu động cơ có ồn lối ra là 0.002 V với độ
nhạy là 10 V/1 mm thì ồn lối ra của hệ thống sẽ là 0.000,2
mm (0.2 µm). Ở bất kỳ thời điểm nào, sai số lối ra có thể là
0.2 µm.
Độ lớn của ồn trong lối ra ảnh hưởng trực tiếp đến dải tần.
Một cách vắn tắt, ồn đóng góp vào cả giải tần khi đo đạc.
Nếu có thể lọc được tần số cao trước lối ra, kết quả thu được
sẽ bớt ồn và có độ phân giải tốt hơn (hình 5 a,b). Khi xác
định đặc tính năng phân giải, nhất thiết phải biết rõ giá trị đó
áp dụng trong giải tần nào.
Ở số tới, chúng ta sẽ bàn về cách thức tối ưu hóa tính năng
của cảm biến điện dung khi mà đối tượng đo có kích thước,
hình dạng và cả vật liệu thay đổi.