Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia – phương tiện giao tiếp chung được sử dụng rộng rãi trên khắp đất nước. Song, ở mỗi địa phương khác nhau, nó lại mang những nét riêng vô cùng phong phú, đa dạng. Mỗi một phương ngữ là một biến thể ngôn ngữ nhất định, vừa khác biệt với tiếng toàn dân, vừa mang nét chung cho toàn vùng phương ngữ.
Phương ngữ Hà Nội nằm trong hệ thống phương ngữ Bắc (PNB), tiêu biểu cho PNB. Nhiều công trình khoa học đã bước đầu nghiên cứu đặc điểm từ vựng, ngữ âm... vùng này. Trong bài viết này, do tính chất của một tiểu luận thiên về nhận xét, đánh giá, chúng tôi chỉ xin đúc rút những nét khái quát về bộ mặt phương ngữ Hà Nội (PNHN), cụ thể là khu vực nội thành, thông qua nguồn tư liệu lấy từ quan sát cuộc sống hàng ngày.
Phạm vi không gian được nhắc đến trong bài viết này là khu vực nội thành Hà Nội, gồm các quận như Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Hoàng Mai... Song, cần nhấn mạnh rằng vị trí của PNHN là nằm trong hệ thống PNB. Bởi vì, PNB vốn được coi là nền tảng xây dựng nên ngôn ngữ văn học Việt Nam. Do đó mà vùng PN này mang nhiều nét “hợp chuẩn” và “chính thức” nhất, gần với tiếng toàn dân nhất. Hà Nội, với tư cách là thủ đô nước Việt Nam, phương ngữ của nó đặc biệt thừa hưởng được truyền thống văn học viết hoàn chỉnh và lâu đời. Đặc điểm này có ảnh hưởng quan trọng tới đặc điểm từ vựng, ngữ âm của PN này.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm nhận của bản thân về phương ngữ nơi mình sống So sánh với đặc điểm tiếng toàn dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cảm nhận của bản thân về phương ngữ nơi mình sống. So sánh với đặc điểm tiếng toàn dân
Mở đầu
Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia – phương tiện giao tiếp chung được sử dụng rộng rãi trên khắp đất nước. Song, ở mỗi địa phương khác nhau, nó lại mang những nét riêng vô cùng phong phú, đa dạng. Mỗi một phương ngữ là một biến thể ngôn ngữ nhất định, vừa khác biệt với tiếng toàn dân, vừa mang nét chung cho toàn vùng phương ngữ.
Phương ngữ Hà Nội nằm trong hệ thống phương ngữ Bắc (PNB), tiêu biểu cho PNB. Nhiều công trình khoa học đã bước đầu nghiên cứu đặc điểm từ vựng, ngữ âm... vùng này. Trong bài viết này, do tính chất của một tiểu luận thiên về nhận xét, đánh giá, chúng tôi chỉ xin đúc rút những nét khái quát về bộ mặt phương ngữ Hà Nội (PNHN), cụ thể là khu vực nội thành, thông qua nguồn tư liệu lấy từ quan sát cuộc sống hàng ngày.
Phạm vi không gian được nhắc đến trong bài viết này là khu vực nội thành Hà Nội, gồm các quận như Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Hoàng Mai... Song, cần nhấn mạnh rằng vị trí của PNHN là nằm trong hệ thống PNB. Bởi vì, PNB vốn được coi là nền tảng xây dựng nên ngôn ngữ văn học Việt Nam. Do đó mà vùng PN này mang nhiều nét “hợp chuẩn” và “chính thức” nhất, gần với tiếng toàn dân nhất. Hà Nội, với tư cách là thủ đô nước Việt Nam, phương ngữ của nó đặc biệt thừa hưởng được truyền thống văn học viết hoàn chỉnh và lâu đời. Đặc điểm này có ảnh hưởng quan trọng tới đặc điểm từ vựng, ngữ âm của PN này.
Nội dung
1. Từ vựng
- Về mặt từ vựng, trước hết có thể thấy hầu như vốn từ vựng của PNHN trùng với vốn từ vựng của ngôn ngữ toàn dân. Đó là do thứ ngôn ngữ được dùng chính thức trên phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài... ), trong các văn bản hành chính và giáo dục được thực thi thường xuyên nhất, đều dặn nhất thường là ở thủ đô của quốc gia.
- Vốn từ vựng của PNHN, cũng như PNB, có phần phong phú hơn PNT và PNN. Nền tảng văn học không chỉ đảm bảo cho tính quy chuẩn cao mà còn khiến mức độ, sắc thái biểu hiện được phân biệt tế nhị cho từng nghĩa một. VD: Ở PNN “ốm” được dùng cho cả nghĩa “gầy” và “đau (ốm)”, ở PNB, tiêu biểu là PNHN, tồn tại hai từ khác nhau để biểu hiện cho mỗi một nghĩa, một sắc thái khác nhau. Tương tự với “thương” của PNN và “yêu”, “thương” của PNHN.
1.3. Một đặc điểm khác, đó là xu hướng phát âm từ mượn tiếng nước ngoài (chủ yếu là tiếng Anh, Pháp) chính xác hơn vùng khác. VD: Nam Định, Thái Bình..., thậm chí ngoại thành HN thường phát âm là “bin”, “(xe) bít” (hay “bút”), còn nội thành HN phát âm là “pin”, “buýt”. Điều này không chỉ rõ ở lớp trí thức Hà Nội mà phổ biến ở mọi đối tượng sống trong địa bàn.
2. Ngữ âm
Về ngữ âm, ở đây chúng tôi nhận xét theo quan điểm âm tiết của GS. Hoàng Thị Châu: Âm tiết bao gồm phụ âm đầu, âm đệm, phần vần và thanh điệu.
- Thanh điệu:
Gồm cả 6 thanh như trong tiếng toàn dân, sắc thái âm vực và đường nét âm điệu chuẩn.
- Âm đầu:
Giữ vị trí âm đầu là các phụ âm.
Số lượng phụ âm đầu của PNHN ít hơn so với tiếng toàn dân: chỉ có 20 âm vị.
Đặc điểm các phụ âm đầu tiếng Hà Nội giống với PNB, hệ thống phụ âm đầu như sau:
Vị trí
Phương
thức cấu âm
Môi
Răng
Lợi
Tiền ngạc
Ngạc
Mạc
Hầu
Tắc
Hữu thanh
b
d
Vô thanh
p
t
(c)
k
.
Bật hơi
t’
Mũi
m
n
.
.
Tắc xát
(ts)
Xát
Vô thanh
f
s
.
Hữu thanh
v
z
X
h
Rung
Bên
l
+ Ở đây, PNHN mất đi dãy phụ âm tiền ngạc: / /, / /, / / và phụ âm rung /r/. Thay vào đó, / / chuyển thành /s/.
/ / chuyển thành /z/.
/r/ chuyển thành /z/.
/ /, /c/ chuyển thành /ts/ hoặc /c/.
Đáng lưu ý ở đây là trường hợp / /, /c/: phụ âm tiền ngạc / / không tồn tại trong PN này, còn phụ âm ngạc, nổ, vô thanh /c/ vẫn còn tồn tại trong phát âm ở một số người Hà Nội, song ở một số khác (đặc biệt là thế hệ trung niên và thanh niên), nó có xu hướng được phát âm như một phụ âm tắc – xát đầu lưỡi – răng /ts/. Những âm tiết có chứa âm vị / / (“tr” trong chính tả) sẽ được phát âm giống như cách phát âm /c/ (“ch” của chính tả), nghĩa là, nếu một người phát âm /c/ (ch) là /ts/ thì / / (tr) cũng là /ts/, người khác giữ nguyên âm vị /c/ (ch) trong phát âm thì / / (tr) cũng phát âm là /c/.
Hướng biến đổi ở đây là chuyển vị trí cấu âm ra phía trước (âm tiền ngạc và lợi chuyển thành phụ âm răng). VD: trong trắng: / / (/ /), chông chênh: / / (hoặc / /), sao sáng: / /, giục giã:/ /, rung rinh: / /...
+ Ngoài ra, còn có hiện tượng lẫn lộn /l/,/n/. Đây là hiện tượng khá phổ biến ở PNB. Song, ở PNHN, lẫn lộn l/n chỉ xuất hiện lẻ tẻ, không thành xu hướng, chủ yếu ở trẻ em và thanh niên, phổ biến hơn ở người làm nghề buôn bán. Ở lớp trí thức hầu như không có hiện tượng này. Có tác giả cho rằng hiện tượng này sẽ mất đi khi đối tượng trưởng thành. Tuy nhiên, vấn đề này hiện vẫn đang được nghiên cứu. Tìm ra quy luật chuyển đổi ngữ âm - âm vị học là việc khó, vì người dân chỉ nhầm lẫn như một thói quen. VD: “long lanh” có thể phát âm là / /, / /, hay / /; “nông nổi” phát âm là / / , / /, / /, / /...
+ Cuối cùng, ở PN này còn tồn tại một hiện tượng thú vị dễ gặp trong PNB: sử dụng song song hai biến thể ngữ âm: /l/, / / (VD: lầm – nhầm, lớn – nhớn, lạt - nhạt, lời – nhời, lanh lẹ – nhanh nhẹn...); /c/ (tr), /z/ (gi) (VD: trai – giai, trăng – giăng, tro – gio, trời – giời...) và / / (nh), /z/ (r) (nhức – rức, nhuộm – ruộm...).
Ở trường hợp l/nh, tuỳ từng cặp từ cụ thể mà ta có lựa chọn biến thể nào là chính thức. VD: /l/ là biến thể chính thức trong “lớn”, “lời”... nhưng / / là biến thể chính thức trong “nhanh”, “nhẹ”. Các trường hợp kia có xu hướng chọn / /, / / làm biến thể chính thức, điều này ngược lại so với cách lựa chọn phổ biến của PNB (chọn /z/ như là cách phát âm thường thấy).
Hiện tượng này không ở nhất loạt các từ nhưng do số lượng các âm tiết chứa hiện tượng này khá lớn, đã gần đi vào hệ thống nên chúng rôi coi nó như một hiện tượng biến đổi ngữ âm chứ không phải từ vựng.
- Âm đệm:
PNHN đầy đủ cả 2 âm đệm /w/ và /zêrô/ như tiếng toàn dân.
- Vần:
PNHN có đủ các vần như ngôn ngữ toàn dân.
Âmcuối
Nguyên
âm
1
2
3
4
5
6
7
- m
- n
- nh
- ng
- ng
- w
- j
Trước
iê
- iêm
- iên
- iêng
- iêw
i
- i:m
- i:n
- inh
- i:w
ê
- ê:m
- ê:n
- ênh
- ê:w
e
- e:m
- e:n
- enh
- e:w
Giữa
ươ
- ươm
- ươn
- ương
- ươw
- ươj
ư
- ưn
- ưng
- ưw
- ưj
ơ
- ơm
- ơn
- ơj
â
- âm
- ân
- âng
- âw
- âj
a
- am
- an
- ang
- aw
- aj
ă
- ăm
- ăn
- ăng
- ăw
- ăj
Sau
uô
- uôm
- uôn
- uông
- uôj
u
- u:m
- u:n
- ung
- u:j
ô
- ô:m
- ô:n
- ông
- ô:j
o
- o:m
- o:n
- ong
- o:j
(Bảng trên dùng phiên âm theo chữ quốc ngữ để tiện theo dõi.
Âm /- w/ ứng với /u/ hay “u”, “o” trong chính tả.
Âm /- j/ ứng với /i/ hay “i”, “y”.)
Đặc điểm khác biệt so với PNB là ở PNHN, tồn tại cách phát âm [- ươw] và [- ưw]. Trong cách phát âm hàng ngày, mỗi đối tượng khác nhau sẽ lựa chọn phương án phát âm là [- ươw] hay[- iêw], là [- ưw] hay [- iw]. Thường thì một người Hà Nội có thể phát được âm [- ươw] và [- ưw], nhưng hay dùng các biến thể [-iêw] và[- iw] trong giao tiếp hàng ngày hơn. VD: “rượu” nói thành “riệu”, “hươu” là “hiêu”, “hưu”, “mưu” nói là “hiu”, “miu”, “cứu” là “kíu”... Biến thể [- ươw] , [- ưw] xuất hiện với tần số cao hơn ở tầng lớp trí thức (nhất là người làm về văn học, nghệ thuật), giới nữ. Trong khi đó, ở PNB, nhiều vùng không phát âm được âm [- ươw] và [- ưw] mà chuyển hết thành [- iêw], [- iw].
Kết luận
PNHN không chỉ nằm trong PNB mà còn là PN tiêu biểu cho vùng PN này. Măt khác, so với ngôn ngữ toàn dân, PNHN mang tính chuẩn cao nhất, gần với tiếng toàn dân nhất. Vì lẽ đó mà một số người không có chuyên môn thường lầm PNHN chính là tiếng toàn dân.
Qua những nhận xét, đánh giá ngắn ngủi trên, có thể khẳng định vị trí quan trọng của tiếng Hà Nội với tư cách là biến thể ngôn ngữ của thủ đô một quốc gia. Đồng thời, tính ổn định, trường tồn của phương ngữ này là có thể dự đoán.