Câu1:Hàng hóa là gì
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đem trao đổi, đem bán.
Hang hóa có thể là vô hình như sức lao động hay hữu hình như sắt, thép, xi măng.
Hai thuộc tính của hang hóa
- Giá trị sử dụng: Là công dụng của vật phẩm có thể đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của vật quy định không phụ thuộc vào hình thái xã hội mà nó tồn tại. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội đồng thời nó mang nội dung của giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng nó. Khi chưa tiêu dùng, giá trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị sử dụng có khả năng biến thành giá trị sử dụng hiện thực, nó phải được tiêu dùng. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất.
- Giá trị: Để hiểu được giá trị hàng hoá phải bắt đầu từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là tỷ lệ về số lượng giữa 2 giá trị sử dụng khác nhau. Thí dụ: 1m vải = 5kg thóc. Trong tỉ lệ đó, số lượng của những hàng hóa trao đổi với nhau, giá trị trao đổi của hàng hóa được biểu hiện ra.
Nếu hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không thể là công dụng, vì công dụng của chúng hoàn toàn khác nhau. Các hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh với nhau trong khi trao đổi, đó là các hàng hóa đều là các sản phẩm của lao động. Cơ sở cho hai hàng hoá trao đổi được với nhau là lao động xã hội hao phí vào việc sản xuất ra những hàng hóa đó. Thực chất của trao đổi hàng hóa cho nhau là trao đổi lao động ẩn giấu trong các hàng hóa đó.
Như vậy, lao động hao phí để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi được gọi là giá trị hàng hóa. Giá trị hàng hoá là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Nó phản ánh mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá gắn liền với kinh tế hàng hoá. Nó là một phạm trù lịch sử. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị là nội dung là cơ sở của giá trị trao đổi.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường: Giá trị thị trường, Giá trị của tiền, Cung cầu hàng hóa, Cạnh tranh
Câu2:Hàng
11 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Câu hỏi ôn tập môn Triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu1:Hàng hóa là gì
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đem trao đổi, đem bán.
Hang hóa có thể là vô hình như sức lao động hay hữu hình như sắt, thép, xi măng.
Hai thuộc tính của hang hóa
- Giá trị sử dụng: Là công dụng của vật phẩm có thể đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của vật quy định không phụ thuộc vào hình thái xã hội mà nó tồn tại. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội đồng thời nó mang nội dung của giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng nó. Khi chưa tiêu dùng, giá trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị sử dụng có khả năng biến thành giá trị sử dụng hiện thực, nó phải được tiêu dùng. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất.
- Giá trị: Để hiểu được giá trị hàng hoá phải bắt đầu từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là tỷ lệ về số lượng giữa 2 giá trị sử dụng khác nhau. Thí dụ: 1m vải = 5kg thóc. Trong tỉ lệ đó, số lượng của những hàng hóa trao đổi với nhau, giá trị trao đổi của hàng hóa được biểu hiện ra.
Nếu hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không thể là công dụng, vì công dụng của chúng hoàn toàn khác nhau. Các hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh với nhau trong khi trao đổi, đó là các hàng hóa đều là các sản phẩm của lao động. Cơ sở cho hai hàng hoá trao đổi được với nhau là lao động xã hội hao phí vào việc sản xuất ra những hàng hóa đó. Thực chất của trao đổi hàng hóa cho nhau là trao đổi lao động ẩn giấu trong các hàng hóa đó.
Như vậy, lao động hao phí để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi được gọi là giá trị hàng hóa. Giá trị hàng hoá là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Nó phản ánh mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá gắn liền với kinh tế hàng hoá. Nó là một phạm trù lịch sử. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị là nội dung là cơ sở của giá trị trao đổi.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường: Giá trị thị trường, Giá trị của tiền, Cung cầu hàng hóa, Cạnh tranh
Câu2:Hàng hóa là gì?
phân tich lượng giá trị hàng hóa
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đem trao đổi, đem bán.
Hang hóa có thể là vô hình như sức lao động hay hữu hình như sắt, thép, xi măng.
Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động.
Lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy.
+Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa
Tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa. Chúng ta xem xét ba yếu tố cơ bản: năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động.
- Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. Như vậy, giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
- Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động.
Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.
-Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên.
Câu 3
Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá. Nó quyết định các phương pháp và các nguyên tắc đo lường phân phối, kích thìch lao động xã hội trong các điều kiện của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động.
Theo quy luật giá trị việc sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, trao đổi phải dựa trên cơ sở ngang giá..
-) Tác động của quy luật giá trị
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Liên hệ tác động của quy luật giá trị Đây là một tác dụng rất lớn của quy luật giá trị, nhờ có tác dụng này mà nền knih tế nước ta có thể đi đúng hướng. Hiện nay, xu hướng của nước ta cũng như của các nước phát triển trên thế giới là tăng các ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng ở các ngành công nghiệp và nông nhiệp. Đó cũng một phần là do quy luật giá trị; tại vì hiện nay, đời sống của nhân dân ta đã được cải thiện, kô còn là ăn no mặc ấm nữa mà là ăn ngon mặc đẹp. Do vậy, sự ra đời của các ngành dịch vụ là tất yếu như là bảo hiểm ( ngành mình đang học....Bây giờ hiện các ngành kinh tế đang là tiêu điểm của các học sinh lớp 12 chứ không còn là các ngành khối kỹ thuật nữa. Và quy luật giá trị còn giúp lưu thông hàng hóa. điều này ta có thể thấy khá rõ vaò thời điểm hiện nay, không ít các doanh nghiệp đem hàng hóa của mình ra nước ngoài để chào hàng; qua đó có thể tìm được các ôối tác nước ngoài để làm ăn lâu dài, và tất nhiên, hàng hóa bán cho tây bao giờ cũng có rất nhiều giá trị thặng dư
"Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa .................."
Đây cũng là một điều rất quan trọng để phát triển kinh tế. Thử hỏi nếu như ta không đầu tư vào máy móc kỹ thuật thì làm sao có thể cạnh tranh với các nước có nền khoa học kt phát triển như nhật, mỹ. Ví dụ như hồi xưa, để là 1m vải, ta cần 1/10 ngày, thfi hiên jnay vói 1/10 ngày, ta có thể làm ra 100m vải. Đó là nhờ thành tựu của khao học kỹ thuật. Và với việc tăng năg suất lao động thì sẽ dẫn đến việc giảm lượng giá trị hàng hóa
=> giá sẽ giảm và ta có thể bán được nhiều hàng hơn. Nhưng điều này cũng có mặt trái của nó là khi đã có mày móc thfi những người công nhân sẽ đi đâu ? Ngyaf xưa để làm công việc này cần 10 người, nay cần 1 người, vậy 9 người kia sẽ đi đâu -> họ sẽ bị sa thải-> thất nghiệp tăng nhanh..........
Nhưng mặt trái của quy luật giá trị là: lựa chọn tự nhiên và phân hóa giàu nghèo.
Người giàu, họ có tiền => mua tư liệu sản xuất, mở rôọg sản xuất........... hao phí lao động cá biệt bán được nhiều hàng hơn=> giàu hơn. Và ngược lại.
Điều này làm cho nhiều người dùng mọi cách để chiếm đoạt công nghệ, không từg thủ đoạn triệt hạ đối phương nhằm mục đích lợi nhuận
Hiểu biết của mình còn nông cạn và là lần đầu học, mong mọi người góp ý để làm phong phú thêm bài viết này .
Câu 4*Bản chất: Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá, là sự thể hiện chung của giá trị; đồng thời, tiền tệ biểu hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo C. Mác tiền tệ
có 5 chức năng:
- Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ
làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không
cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng
tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội
cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền
gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim
loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ
và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu
chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước
đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo
lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự
thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá
tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó,
mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.
- Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi
giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có
tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và
không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng
kinh tế.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần
dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần
và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ
giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng
lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm
cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.
Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận
trong phạm vi quốc gia.
- Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông
đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã
hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức
năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ
làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho
lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu
thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút
khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
- Phương tiện thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ,
nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến
trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước
tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán
chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán.
Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách
thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu
người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ
phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ
gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng
lên.
- Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình
thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện
mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã
hội.
Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với
nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Câu 5
Sức lao động là các hoạt động của con người được sử dụng trong sản xuất để sản xuất ra hàng hoá. hàng hoá ở đây được nhìn nhận ở nhiều hình thức:
- Có thể là các sản phẩn có thể cầm nắm như quàn áo, thức ăn, điện thoại,...
- Các sản phẩm chỉ có thể nghe nhìn như: các bài hát, chương trình Tivi, các trận thi đấu thể thao...
Sức lao động là năng lực làm việc của 1 người
người có sức lao động phải được tự do về thân thể. Sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa, khi nó được bản thân người có sức lao động đem bán. Để có điều kiện này người lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình, có quyền định đoạt năng lực của mình. Những người nô lệ, nông nô không có quyền tự do về thân thể, không thể đem bán sức lao động của mình.
2. người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Người chủ sức lao động không còn bất cứ hàng hóa nào để bán ngoài sức lao động tồn tại trong cơ thể sống của mình. Điều này chỉ xuất hiện khi người lao động không còn bất cứ thứ tư liệu sản xuất tối thiểu nào để vật hóa sức lao động của mình, thành hàng hóa.
2/ Cũng giống như hàng hóa khác, hàng hóa SLĐ có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị của hàng hóa SLĐ cũng bằng lượng LĐ XH cần thiết để sx và tái sx ra nó. Nhưng việc sx và tái sx ra SLĐ phải đc thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng hàng hóa SLĐ bằng lượng giá trị những tư liệu cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân và gia đình của họ cùng với chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của sx. Giá trị hàng hóa SLĐ phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa SLĐ là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng SLĐ của nhà TB.Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa SLĐ khi đc sử dụng sẽ tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc giá trị thặng dư
Liên hệ:
Đối với nước ta, việc phát triển thị trường sức lao động nhằm tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động và quản lý mối quan hệ giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động, từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo nhiều của cải vật chất cho xã hội. Từ 1993 đến nay, Nhà nước đã đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nhờ đó mức lương tối thiểu được pháp luật hóa và nâng cao theo thị trường. Thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp được cải thiện. Tuy nhiên, vấn đề giá cả hàng hóa sức lao động ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động và ảnh hưởng lan toả đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do vậy, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại thực trạng giá cả hàng hóa sức lao động thời gian qua để từ đó có giải pháp hữu hiệu cho thời gian tiếp theo, tạo động lực để thị trường này phát triển vững mạnh.
Câu 6: trình bày phương pháp giá trị thặng dư? Tại sao nói giá trị thặng dư siêu nghạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối ? ý nghĩa của việc nghiên cứu các vấn đề trên của nước ta hiện nay?
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà cittư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá