Các thành phần không phải chất nguyên sinh là sản phẩm trao đổichất của thành phần nguyên sinh nằm trong tế bào chất như không bàochứa dịch tế bào, các hạt tinh bột, hạt alơron, các giọt dầu và các sản phẩmtrao đổi chất cuối cùng như các tinh thể vô cơ, chúng nằm vùi trong tế bàochất nên gọi là thể vùi hay thể ẩn nhập. Vách tế bào là sản phẩm trao đổichất của thành phần nguyên sinh, nhưng nó nằm ngoài màng sinh chất,nên không được coi là một thành phần của tế bào chất. Các thành phầnnguyên sinh và không phải chất nguyên sinh (trừ các sản phẩm bài tiết,các tinh thể vô cơ) là các thành phần cơ bản của tế bào thực vật chúng tác động qua lại với nhau tạo ra tế bào sống.
18 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3856 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Câu hỏi thực vật học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1 : các thể ẩn nhập trong tế bào
1.Các thành phần không phải chất nguyên sinh là sản phẩm trao đổi
chất của thành phần nguyên sinh nằm trong tế bào chất như không bào
chứa dịch tế bào, các hạt tinh bột, hạt alơron, các giọt dầu và các sản phẩm
trao đổi chất cuối cùng như các tinh thể vô cơ, chúng nằm vùi trong tế bào
chất nên gọi là thể vùi hay thể ẩn nhập. Vách tế bào là sản phẩm trao đổi
chất của thành phần nguyên sinh, nhưng nó nằm ngoài màng sinh chất,
nên không được coi là một thành phần của tế bào chất. Các thành phần
nguyên sinh và không phải chất nguyên sinh (trừ các sản phẩm bài tiết,
các tinh thể vô cơ) là các thành phần cơ bản của tế bào thực vật chúng tác
động qua lại với nhau tạo ra tế bào sống.
Thể ẩn nhập là các sản phẩm thứ sinh được tạo ra do tổng hợp thứ
cấp hoặc do sự phân giải qua sự trao đổi chất trong đời sống tế bào. Chúng
là những sản phẩm dự trữ hay thải bả thường có cấu trúc đơn giản hơn
chất nguyên sinh. Các sản phẩm thứ sinh được nghiên cứu nhiều nhất là
các hạt tinh bột, xenluloza, chất béo, protein ... và chất vô cơ ở dạng tinh
thể và các chất hữu cơ thuộc sản phẩm phân giải như tanin, nhựa, gôm,
cao su, ancaloit mà chức năng của chúng chưa được hiểu biết đầy đủ. Các
chất thứ sinh nằm trong không bào, trong vách tế bào và có thể phối hợp
với các thành phần của chất nguyên sinh tế bào.
2. Hạt tinh bột
Hạt tinh bột là những chất tổng hợp thứ sinh chính của chất nguyên sinh, tinh bột tồn tại như một nguyên liệu dự trữ trong thể nguyên sinh, chất này có những phân tử chuổi dài mà những đơn vị cơ bản của chúng là gốc glucoza, mất một phân tử
nước và có công thức C6H10O5. Các phân tử tinh bột đều có cấu tạo từ một số lớn các nhóm monosaccharit, kết hợp với nhau thành chuỗi dài và thẳng (amiloza) hoặc phân nhánh (amilopectin). Các phân tử tinh bột của các loại khác nhau, đều có công thức phân tử tổng quát là (C6H10O5)n. Các lạp không màu có chức
năng tổng hợp các tinh bột thứ cấp để dự trữ, gọi là lạp bột. Những thay đổi hình
thái, kích thước của các hạt tinh bột thường rất đa dạng, có thể sử dụng chúng
để góp phần xác định đặc tính các loài cây . Chẳng hạn kích thước hạt tinh
bột khoai tây là 70 - 100μm, lúa mì là 30 - 40μm, ngô là 12 - 18μm và hình thái cấu tạo rất khác nhau. Các hạt tinh bột ở nhiều cây có sự phân lớp đồng tâm rõ rệt, vì sự luân phiên các lớp khúc xạ nhiều hay ít do sự ngậm nước hay không ngậm nước của các phân tử tinh bột. Các lớp này sắp xếp quanh một cái rốn mà vị trí của chúng ở trung tâm hoặc lệch tâm. Các hạt bán kép có hai hay nhiều rốn nhưng nằm chung trong một màng của lạp không màu. Tinh bột phổ biến trong cơ thể thực vật nhưng thường có trong mô mềm dự trữ của hạt, mô mềm của các mô dẫn thứ cấp ở thân và rễ, mô mềm của các cơ quan dự trữ như thân, rễ, củ, thân hành ...
3. Hạt alơrôn
Hạt alơrôn là thành phần chính trong chất nguyên sinh,
nhưng chúng cũng tồn tại như những chất thứ sinh, tạm thời không hoạt
động, xem như là chất dự trữ. Chúng tồn tại ở dạng kết tinh hoặc vô định
hình. Protein vô định hình có thể tạo ra các chất định hình hoặc vô định
hình như ở Tảo, Nấm, noãn cầu hạt trần. Protein kết tinh phối hợp những
thuộc tính keo, vì vậy chúng có dạng tinh thể. Protein vô định hình quen
thuộc là gluten, nó là một chất liên kết với tinh bột ở nội nhũ lúa mì, ở
nhiều hạt, phôi nhũ, nội nhũ hoặc ngoại nhũ có chứa protein dự trữ ở dạng
hạt alơron. Các hạt này có thể là đơn hoặc có chứa các thể vùi dạng cầu (á
cầu) và dạng tinh thể của protein. Những dạng tinh thể protein hình khối
lập phương có trong tất cả tế bào mô mềm ở vùng ngoại vi củ khoai tây
. Nguồn gốc của các thể vùi protein đã được nghiên cứu chủ yếu bằng cách theo dõi sự phát triển các hạt alơrôn, protein đầu tiên nằm trong không bào, protein cô đặc lại chuyển thành alơron.
4. Giọt dầu
Chất chất dầu phân bố rộng rải trong cơ thể cây và chúng tồn tại với một lượng nhỏ trong tế bào cây. Thuật ngữ chất béo không chỉ dùng để diễn đạt các este của axit béo với glyxerol mà còn liên quan với những chất được tập hợp dưới tên lipit. Dầu được coi là chất béo lỏng. Các chất sáp, suberin và cutin có bản chất là chất béo và thường xuất hiện như những chất bảo vệ ở trong và trên vách tế bào. Phophatit và sterol cũng có liên quan với chất béo. Chất béo và dầu là các thể vùi,
thường là nguyên liệu dự trữ trong hạt, bào tử, phôi, trong các tế bào mô phân sinh và đôi khi nằm trong mô vĩnh viễn. Chúng xuất hiện như những thể rắn hoặc thông thường là những giọt nhỏ kích thước khác nhau hoặc phân tán vào tế bào chất hoặc được tập hợp thành khối lớn. Về mặt nguồn gốc, chất béo hoặc hình thành trong tế bào chất (không bào dầu) hoặc hình thành trong lạp không màu (lạp dầu). Tinh dầu là một chất dễ bay hơi, có mùi thơm, thường thấy phổ biến trong cây như ở Tùng bách, chúng có trong tất cả các mô của các loài
cây khác, chúng chỉ phát triển ở cánh hoa, vỏ quả, lá hoặc trong quả.
5. Tanin
Tanin là một nhóm các chất phenol, thường có liên quan với
glucozit. Với nghĩa hẹp, tanin chỉ là một loại hợp chất phenol đặc biệt, có
trong lượng phân tử cao. Những chất khan nước của tanin như phlobaphen
là những chất vô định hình có màu vàng, màu đỏ hoặc màu nâu. Chúng
xuất hiện như những khối hạt nhỏ, thô hoặc mịn hoặc như các thể với kích
thước khác nhau. Tanin đặc biệt phong phú trong nhiều lá cây có ở
phloem và chu bì của thân, rể, ở quả chưa chín, có ở vỏ hạt và các khối u
bệnh lý như các mụn cây. Tuy nhiên, dường như không có mô nào là
không có tanin hoàn toàn và chúng còn tìm thấy ở mô phân sinh của các
cây một lá mầm, thường rất nghèo tanin. Ở các tế bào riêng lẽ, tanin nằm
trong nguyên sinh chất và cũng có thể xâm nhập vào vách chẳng hạn như
mô bần. Trong chất nguyên sinh, tanin là một thành phần thông thường
của không bào hoặc ở trong tế bào chất ở dạng giọt nhỏ và những giọt này
hợp lại với nhau.
Về chức năng, tanin được giải thích như những chất bảo vệ nguyên
sinh chất chống lại sự khô héo, thối rửa hoặc hư hại do động vật, hoặc như
những chất dự trữ gắn liền với sự trao đổi chất của tinh bột theo một
phương thức chưa xác định nào đó, như những chất chống oxy hoá và như
những chất keo bảo vệ và giữ vững tính đồng nhất của tế bào.
6. Tinh thể canxi oxalat và các chất vô cơ khác
Tinh thể này thường thấy ở các không bào. Một số tinh thể canxi
oxalat hình thành trong tế bào biểu bì, hay tế bào mô mềm. Một số tinh thể
khác hình thành trong dị tế bào. Còn một số tinh thể của chúng lắng đọng
trong vách tế bào. Các tinh thể thường nhỏ hơn tế bào chứa chúng, hoặc
lấp đầy toàn bộ tế bào, thậm chí còn làm biến dạng tế bào. Các tinh thể
hình kim thường nằm trong các tế bào dị hình lớn, khi trưởng thành là
những tế bào chết, chứa đầy chất nhầy, có phồng lên, nhưng vách tế bào
vẫn mỏng nên tế bào có thể bị vỡ và các tinh thể hình kim bị tống ra ngoài.
Các tinh thể canxi oxalat có thể kết tinh đồng đều khắp mô hoặc bị giới
hạn vào một vùng mô. Canxi cacbonat ít khi thấy tồn tại ở những tinh thể
có hình dạng rõ rệt. Nang thạch và tinh thể canxi cacbonat nằm trong mô
mềm và biểu bì. Ở mô biểu bì, chúng có thể tạo ra ở lông hoặc ở các nang
thạch tế bào đã tăng trưởng. Silic được lắng đọng hầu hết trong vách tế
bào, nhưng đôi khi hình thành trong khoang tế bào. Silic thường tồn tại ở
dạng vô định hình
câu 2 : mô phân sinh
Mô phân sinh là mô tập hợp bởi những tế bào có khả năng phân chia
để hình thành tế bào mới .
Ðặc trưng của mô phân sinh là không chỉ tạo ra, bổ sung tế bào mới
cho cơ thể thực vật mà còn làm chính chúng hoạt động mãi, như vậy có
một số tế bào vẫn duy trì khả năng phân sinh trong suốt đời sống cá thể.
Hiện tượng tập trung chức năng sinh sản tế bào vào một số phần cơ
thể gắn với quá trình tiến hóa hoàn thiện chung của thực vật. Ở nhiều loài
thực vật sinh trưởng là kết quả của hoạt động phân sinh, còn ngược lại ở
động vật sự phân sinh các tế bào mới hầu như dừng lại ở giai đoạn trưởng
thành nhất định của cá thể.
Bắt đầu bằng sự phân chia của tế
bào hợp tử, thực vật bậc cao thường sinh ra các tế bào mới và hình thành
cơ quan mới cho tới khi chết. Những giai đọan đầu tiên của phôi, sự sinh
sản tế bào xảy ra trong tòan bộ phôi. Nhưng khi phôi đã hình thành và phát
triển thành cây con, thì những mô gắn liền với quá trình hình thành các tế
bào mới gọi là mô phân sinh, nó được giới hạn nằm ở ngọn cây, tồn tại
trong suốt đời sống của cây, còn những phần khác gắn liền với hoạt động
trưởng thành. Vì vậy trong một cây, bao gồm các mô phân sinh và các mô
trưởng thành ( mô vĩnh viễn).
Hiện tượng tập trung mô phân sinh vào một số phần của cơ thể cây,
gần như gắn liền với quá trình phát sinh chủng loại. Ở những thực vật bậc
thấp nguyên thủy nhất, tất cả các tế bào có bản chất như nhau, tất cả các tế
bào đều tham gia vào quá trình trao đổi chất, trao đổi năng lượng, trao đổi
thông tin và sinh sản.
Thuật ngữ mô phân sinh, nhấn mạnh hoạt động phân chia của tế
bào. Sự tổng hợp chất sống mới là phần cơ bản của quá trình tạo các tế bào
mới bằng sự phân chia. Ngoài mô phân sinh, các mô sống khác, cũng có
thể sinh ra các tế bào mới, nhưng mô phân sinh là mô có hoạt động phân
chia tế bào không có giới hạn vì nó không ngừng bổ sung tế bào cho cơ
thể cây, mà còn làm cho chính chúng tồn tại theo tuổi thọ của loài, nghĩa
là, một số sản phẩm của sự phân chia trong các mô phân sinh không phát
triển thành các tế bào trưởng thành và vẫn giữ khả năng phân chia trong
suốt đời sống cá thể, chúng thuộc mô phân sinh. Sự sinh sản tế bào, bao
gồm ba yếu tố: sinh trưởng, di truyền và phát triển. Nhưng sự sinh sản tế
bào xảy ra không có sự sinh trưởng như giao tử, bào tử, hoặc nếu không có
sự sinh trưởng thì tế bào cũng có sự bổ sung thêm ở dạng chất nguyên
sinh, chất cấu tạo vách tế bào tăng trưởng: Trong hoạt động phân sinh, quá
trình sinh trưởng, có thể phân chia thành hai giai đọan: sinh trưởng với sự
phân chia tế bào và sự tăng trưởng có giới hạn, sinh trưởng không có sự
phân chia tế bào, nhưng sự tăng trưởng thể hiện rõ rệt. Có sự biến đổi dần
dần từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
Vì các mô phân sinh nằm ở đầu ngọn chồi, ngọn rễ chính, ngọn rễ
bên, nên số lượng của chúng trong một cây rất lớn. Hơn nữa còn các mô
phân sinh khác như tầng sinh mạch, tầng sinh bần, vòng dày... gắn liền với
quá trình sinh trưởng thứ cấp về chiều dày của trục. Hoạt động phối hợp
của tất cả mô phân sinh này tạo ra một cơ thể cây phức tạp. Các tầng phát
sinh, mô phân sinh thứ cấp, bằng cách tăng thể tích của hệ thống dẫn nhựa
và tạo ra mô bảo vệ, mô cơ, đã góp phần sinh trưởng thứ cấp, duy trì mở
rộng theo bề ngang của cơ thể cây.
Không phải tất cả mô phân sinh ngọn có mặt trên một cây nào đó
đều nhất thiết phải hoạt động. Chẳng hạn sự hạn chế của mô phân sinh là
phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chồi chính và chồi bên. Hoạt động cuả
các tầng phát sinh cũng thay đổi về mặt cường độ. Cả mô phân sinh ngọn
và các tầng phát sinh đều dao động theo mùa trong hoạt động phân sinh
của chúng, hoặc giảm bớt hoàn toàn sự phân chia tế bào trong mùa đông ở
các vùng ôn đới.
1. Sự tiến hóa của mô phân sinh
- Ở thực vật đơn bào và đa bào bậc thấp chưa có mô phân sinh, ở các
loại tảo hình sợi tế bào có sự phân cực phân cắt theo một mặt phẳng .
Ở đa bào bậc thấp hình tản các tế bào nằm theo chiều ngang và dọc
có sự phân cắt theo hai mặt phẳng hình thành tản thực vật. Từ tản một lớp
tế bào đến tản nhiều lớp.
- Ở thực vật có chồi khi xuất hiện trên cạn đã có sự phân chia theo 3
mặt phẳng tạo thành thực vật chồi cành .
Từ đây thực vật bắt đầu có mô phân sinh, một nhóm tế bào luôn đảm
đương nhiệm vụ phân chia trong suốt đời sống cá thể gọi là nhóm tế bào
khởi sinh.
Nhóm tế bào khởi sinh phân chia taọ thành nhóm tế bào phân sinh
phân hóa còn gọi là mô phân sinh ngọn hay đỉnh sinh trưởng, phân chia
một thời gian nhất định rồi hình thành các mô vĩnh viễn.
2. Cấu tạo tế bào phân sinh
Các tế bào phân sinh có đặc điểm: Màng sơ cấp rất mỏng, chất sống
chiếm ưu thế so với chất không sống, không bào rất nhỏ, nhân lớn tròn vì
không bị sức ép của không bào. Tỷ lệ chất nguyên sinh so với chất dự trữ ≥ 90
%. Chứa nhiều cơ quan tử, hoạt động tăng, do đó dẫn đến mâu thuẩn
là tế bào nhỏ, khả năng sinh trưởng lớn, mối liên hệ giữa bề mặt và thể tích
bị phá vở và quá trình phân chia tế bào xảy ra.
Các mô phân sinh có cấu trúc tế bào khác nhau và về cơ bản không
khác với các mô sống trưởng thành. Trong thời gian phân bào mạnh, các tế
bào phân sinh không có thể vùi thứ sinh và các lạp tồn tại ở giai đoạn tiền
lạp thể. Chúng có mạng lưới nội chất kém phát triển và trong thể tơ có cấu
trúc bên trong ít phức tạp hơn. Như vậy mô phân sinh ít phân hóa. Những
tế bào ở tầng sinh bần có thể có lục lạp, và ở tầng sinh mạch có thể chứa
tinh bột và tanin, mô phân sinh phôi ở trạng thái nghỉ thường chứa các
chất dự trữ khác nhau. Mức độ không bào hóa ở các tế bào phân sinh rất
thay đổi. Các tế bào mô phân sinh ngọn chứa thể nguyên sinh đậm đặc.
Nếu có không bào thì thường khó quan sát dưới kính hiển vi quang học
hoặc ở trạng thái phân tán trong tế bào chất. Ở mô phân sinh ngọn nhiều
cây Quyết và Hạt trần, một số tế bào có không bào rõ rệt. Tóm lại, kích
thước tế bào, mô phân sinh tỷ lệ thuận với không bào. Các tế bào mô phân
sinh, có nhân lớn. Nhưng tỷ lệ giữa kích thước tế bào và kích thước nhân
là rất thay đổi trong các mô phân sinh. Ở các tế bào phân sinh lớn thì có tỷ
lệ nhân so với tế bào nhỏ hơn tế bào phân sinh nhỏ. Hình dạng, kích thước
của các tế bào phân sinh cúng rất thay đổi. Ở mô phân sinh ngọn, tế bào
phân sinh thường có kích thước đồng đều. Ở tầng sinh mạch thì các tế bào
phân sinh có hình thoi. Chiều dày vách tế bào phân sinh cũng khác nhau,
thông thường chúng có vách sơ cấp mỏng. Ở một số vùng của mô phân
sinh ngọn, có thể có vách sơ cấp dày, và vùng lỗ sơ cấp rất rõ. Các tế bào
phân sinh của tầng sinh mạch đôi khi vách dày rõ rệt với các vùng lỗ cấp
một lõm sâu. Thông thường ở các mô phân sinh không có khỏang gian
bào, nhưng chúng có thể sớm phát triển ở mô phân sinh dẫn xuất như ở rễ
cây. Những đặc điểm sinh hóa rất khác nhau giữa các tế bào, giữa tế bào
mô phân sinh và mô vĩnh viễn. Các mô phân sinh có tốc độ hoạt động trao
đổi chất cao, thường có phản ứng mạnh với peroxydaza và thường giảm
xuống sau khi phân bào kết thúc.
3. Phân loại mô phân sinh
Mô phân sinh được mô tả như những mô tạo hình, thường bổ sung
những tế bào mới cho cơ thể cây bằng sự phân chia. Một phần sản phẩm
của sự phân bào vẫn giữ đặc tính phân chia, tức là tế bào khởi sinh và phần
còn lại để phát triển thành các mô khác tức là các tế bào phân sinh dẫn suất
của các tế bào khởi sinh. Trong quá trình phát triển này, các tế bào mô
phân sinh dẫn xuất dần dần biến đổi về mặt hóa học, sinh lý, hình thái và
mang các đặc tính tương đối chuyên hóa. Nếu các tế bào chuyên hóa, còn
sống có thể thay thế hình thái, sinh lý do thay đổi các điều kiện bên ngoài
hay bên trong dẫn tới sự phản phân hóa, trở lại khả năng phân chia, tạo
thành mô phân sinh phản phân hóa và quá trình phân hóa lại, tạo ra các mô
vĩnh viễn.
Sự phân hóa mô phân sinh, dựa vào các vị trí của chúng trong cơ thể
cây như mô phân sinh ngọn nằm ở chồi ngọn, ngọn rễ và mô phân sinh
bên là mô phân sinh sắp xếp song song ở phía bên của cơ quan, như tầng
phát sinh bần, tầng phát sinh mạch.
Một cách phân loại mô phân sinh sơ cấp và thứ cấp tùy thuộc bản
chất các tế bào sinh ra các mô phân sinh này. Mô phân sinh sơ cấp thuộc
dòng dõi trực tiếp của tế bào phôi, luôn gắn liền với sinh trưởng. Mô phân
sinh thứ cấp, có nguồn gốc từ mô vĩnh viễn sơ cấp, rồi lại tiếp tục hoạt
động phân sinh. Như vậy sự phân loại mô phân sinh sơ cấp và thứ cấp hiện
nay có hai quan điểm : dựa vào nguồn gốc và dựa vào thời gian xuất hiện
của mô phân sinh trong một cây nào đó, hoặc trong một cơ quan nào đó.
Mô phân sinh ngọn là mô phân sinh sơ cấp, mô phân sinh bên là mô phân
sinh thứ cấp.
Các mô phân sinh dẫn xuất từ mô khởi sinh, đã phân hóa một phần
những vẫn còn giữ khả năng phân chia và các mô phân sinh này được tách
riêng tùy theo hệ thống mô đã hình thành từ chúng. Những mô này là: lớp
sinh bì phân hóa thành hệ thống biểu bì, tầng trước phát sinh sinh ra mô
dẫn sơ cấp và mô phân sinh cơ bản hình thành hệ thống mô cơ bản.
Mô phân sinh lóng dùng để chỉ một vùng mô sơ cấp đang phát triển
mạnh, nằm hơi xa mô phân sinh ngọn, nằm xen vào giữa những vùng mô
đã phân hóa ít nhiều. Trên cơ sở vị trí, các mô phân sinh lóng thường
nhóm họp với mô phân sinh ngọn và mô phân sinh bên. Các vùng sinh
trưởng lóng chứa các yếu tố mô đã phân hóa và cuối cùng được chuyển
hoàn toàn thành các mô trưởng thành. Các mô phân sinh lóng là những mô
tìm thấy ở các lóng và bẹ ở cây Một lá mầm, đặc biệt là các cây thảo, cỏ
tháp bút... Phần non nhất của ngọn chồi có nguồn gốc từ mô phân sinh
ngọn chưa phân thành lóng. Các phần này phát triển qua sự phân chia và
mở rộng của các tế bào ở mấu. Các mấu chồng lên nhau, được tách rời
nhau bằng sinh trưởng lóng, nằm xen giữa các mấu. Đầu tiên các tế bào
phân chia ở khắp các lóng non, nhưng về sau hoạt động phân chia được
giới hạn vào tương đối hẹp thường nằm ở gốc lóng. Sự kéo dài của lá cũng
tương tự như vậy và sự phân chia cũng giới hạn vào vùng thấp nhất của bẹ
lá. Sau khi lóng và bẹ lá đã hoàn thành sự kéo dài, các phần gốc của chúng
vẫn giữ lại tiềm năng sinh trưởng trong một thời gian dài, mặc dù trong
chúng đã có tế bào mô cơ và mô dẫn đã phân hóa hoàn toàn.
Tất cả các chồi sinh dưỡng đều được phân đốt tạo thành mấu và lóng
rồi kéo dài ra. Các mấu mang mầm lá đều được sinh ra liên tiếp sát nhau ở
ngọn chồi, rồi bị tách xa nhau bằng sự phát triển lóng.
3.1. Căn cứ vào nguồn gốc có thể phân biệt
3.1.1. Mô phân sinh sơ cấp
Có nguồn gốc trực tiếp từ tế bào hợp tử, giúp thực vật tăng trưởng
theo chiều cao như: mô phân sinh ngọn ở đầu thân, đầu rễ, mô phân sinh
lóng v.v...Ở các đỉnh sinh trưởng của thân, các tế bào khởi sinh hoạt động
phân chia liên tục tạo thành nhóm tế bào phân sinh phân hoá gồm các lớp
sinh bì, tầng trước phát sinh và mô phân sinh cơ bản. Sau này lớp sinh bì
sẽ hình thành mô bì, tầng trước phát sinh hoạt động tạo thành mô dẫn và
mô phân sinh cơ bản sẽ tạo nên mô mềm cơ bản.
Mô phân sinh ngọn ở đầu rễ hoạt động tạo thành chóp rễ và các phần
của rễ. Tổng quát nó gồm các lớp sinh bì, lớp sinh vỏ và lớp sinh trụ.
Chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết cấu tạo của Mô phân sinh ngọn ở đầu
thân và đầu rễ khi học phần các cơ quan sinh dưỡng.
3.1.2. Mô phân sinh thứ cấp
Mô phân sinh thứ cấp có nguồn gốc từ những tế bào phản phân hóa,
hoặc từ tầng trước phát sinh (như tầng phát sinh trụ) có khả năng phân
chia giúp các cơ quan thực vật tăng trưởng về bề ngang như: tầng phát
sinh vỏ (tầng phát sinh bần, lục bì), tầng phát sinh trụ (tầng phát sinh libe
gỗ hay tượng tầng.)
3.2. Căn cứ vào vị trí có thể phân biệt
3.2.1. Mô phân sinh ngọn
Mô phân sinh ngọn ở đầu thân hoặc đầu rễ
3.2.2. Mô phân sinh lóng
Mô phân sinh lóng ở các lóng, tăng cường hoạt động phân sinh giúp
thân tăng chiều cao nhanh chóng, đó là lọai mô phân sinh hoạt động chậm
và phân hóa từ trên xuống. Tùy theo kích thước của lóng đối với mỗi loài
nhất định mà mô phân sinh lóng ngừng hoạt động và phân hóa thành tế
bào mô vĩnh viễn. Sự hoạt động này làm cho nhiều loại hòa thảo sinh
trưởng cao rất nhanh, đây là đặc điểm thích nghi sinh học quan trọng.
3.2.3. Mô phân sinh bên
Mô phân sinh bên là những mô phân sinh thứ cấp nằm dọc theo trục
của thân hoặc của rễ giúp các cơ quan tăng trưởng bề ngang như tầng phát
sinh trụ , tầng phát sinh vỏ.
Ngoài ra còn có mô phân sinh đặc biệt gọi là thể chai (callus) là một
khối tế bào mô mềm có màng sơ cấp dày lên nhanh chóng (hiện tượng
tăng sản) để trám vết thương (được ứng dụng để ghép cành).
Cần lưu ý là không phải tất cả các m