Nuôi tôm, nuôi trồng thuỷ sản là một công việc đầy rủi ro, đặc biệt là nuôi
tôm đang được phát triển theo hướng tăng diện tích, loại hình nuôi và mức độ
thâm canh. Bên canh sự hấp dẫn về lợi nhuận cao, nuôi trồng thuỷ sản gặp
nhiều khó khăn về môi trường và dịch bệnh, đặc biệt là ở các khu nuôi tập
trung. Do vậy, vấn đề quản lý chất lượng nước đã trở nên cấp thiết và cần có
sự hỗ trợ của các cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến ngư hay cộng đồng.
22 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Câu hỏi thường gặp về nuôi tôm sú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu Hỏi Thường Gặp Về
Nuôi Tôm Sú
Nuôi tôm, nuôi trồng thuỷ sản là một công việc đầy rủi ro, đặc biệt là nuôi
tôm đang được phát triển theo hướng tăng diện tích, loại hình nuôi và mức độ
thâm canh. Bên canh sự hấp dẫn về lợi nhuận cao, nuôi trồng thuỷ sản gặp
nhiều khó khăn về môi trường và dịch bệnh, đặc biệt là ở các khu nuôi tập
trung. Do vậy, vấn đề quản lý chất lượng nước đã trở nên cấp thiết và cần có
sự hỗ trợ của các cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến ngư hay cộng đồng.
Chuẩn bị ao nuôi - Khâu quan trọng quyết định vụ nuôi thành công
Kiểm tra, đo đạt nguồn nước thường xuyên
Đây là kết quả nghiên cứu thử nghiệm "Quản lý môi trường trong nuôi
trồng thuỷ sản ven biển Bắc Trung Bộ" được tiến hành trong 2 năm trên 20
mô hình, 800 hộ nuôi tôm do các cán bộ hợp phần của dự án VIE97030 kết
hợp cơ sở lý thuyết tài liệu có uy tín của các chuyên gia về tôm trong và ngoài
nước.
Kết quả thử nghiệm tại 3 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Thừa Thiên Huế nên
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tài liệu này trước hết nhằm phục
vụ việc nuôi tôm ở khu vực Bắc Trung Bộ. Dù vậy, tài liệu này có thể linh
động áp dụng cho các khu vực khác và ngay cả trong khu vực Bắc Trung Bộ,
phải tuỳ theo từng trường hợp mà xử lý cho phù hợp với điều kiện từng ao, ở
từng thời điểm cụ thể.
A/ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NƯỚC TRONG AO NUÔI TÔM
1/ Chất lượng nước trong trong ao tôm như thế nào là phù hợp ?
Bảng 1: Các thông số chất lượng nước chính trong ao nuôi tôm
Thông số
Khoảng
cho phép
Khoảng
thích hợp
Nhận định
Nhiệt độ
(°C)
26-33 28-30
>32°C hoặc <25°C giảm 30-50% lượng
thức ăn
pH 7.5-8.5 7.8-8.2 Dao động ngày đêm <0.5
Độ mặn
(‰)
10-30 15-25 Dao động ngày đêm <5
Ô xy hoà
tan (mg/l)
3-12 5-6 > 4
Độ kiềm
(mg
CaCO3/l)
>80 100-120 Phụ thuộc và pH dao động
Độ trong
(cm)
30-50 cm 30-40 cm
Độ sâu >100 Tuỳ hình thức nuôi, song tối thiểu phải >
(cm) 100
H2S (mg/l) <0.03 0 Độc hơn khi pH thấp
NH3 tự do
(mg/l)
<0.1 0 Độc hơn khi pH cao
(Nguồn: P. Characchakool, 1999)
2/ Nhiệt độ có ảnh hưởng trong ao tôm như thế và làm thế nào để quản lý
nhiệt độ trong khi nhiệt độ luôn biến động mạnh theo thời tiết ?
Nhiệt độ là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong nuôi trồng thuỷ sản.
Nhiệt độ phù hợp cho tôm và tảo thực vật có lợi là 28°C-33°C. Nhiệt độ
không nên thay đổi đột ngột, nếu biến động quá 5°C/ngày sẽ làm cho tôm
giảm ăn. Nếu nhiệt độ >33°C hoặc <25°C tôm giảm ăn từ 30-50%. Nhiệt độ
thấp tôm giảm ăn hoặc ngưng ăn, chậm hoặc không lớn. Nhiệt độ cao > 35°C,
nhóm tảo lam gây hại cho tôm sẽ phát triển
3/ Quản lý nhiệt độ như thế nào ?
Thiết kế ao nuôi đủ độ sâu > 1m. Thả nuôi đúng mùa vụ. Mùa vụ ở Nghệ An,
Thanh Hoá qui định là tháng cuối tháng 3 đầu tháng 4 dương lịch (sau tết
Thanh Minh 3/3 âm lịch) và ở Thừa Thiên Huế là tháng 2- 3 và tháng 6-7
dương lịch. Có ao chứa để xử lý khi nhiệt độ dao động quá 5°C trong ngày.
4/ Trong quá trình nuôi nếu nhiệt độ trong ao biến động mạnh cần làm gì
?
Ao đủ độ sâu, nhiệt độ ít khi dao động quá 5°C/ngày. Thường nhiệt độ chỉ
dao động khi thời tiết diễn biến thất thường, trời đang nắng nóng chuyển mưa
rào, nhiệt độ giảm thấp, giải pháp khi đó là: Thay được nước đã xử lý vào ao
chứa là tốt nhất (thay 20-30% lượng nước) hoặc phải tháo lớp nước mặt, chạy
máy quạt khí để tránh phân tầng nhiệt. Nếu không có ao chứa, phải thiết kế
mương nội đồng từ lúc cải tạo. Mương nội đồng là 1 mương nhỏ trong ao, sâu
hơn đáy ao 40-60 cm, rộng 60-80 cm giúp tôm trú ẩn khi nhiệt độ thay đổi bất
thường. Tạo cân bằng, ổn định màu nước và các thông số khác trong ao tôm
đồng thời kiểm tra các vó cho ăn, giảm lượng thức ăn nếu cần thiết. Ghi lại
thời gian và các dấu hiệu khác liên quan để rút kinh nghiệm cho vụ sau (thả
đúng màu vụ, thiết kế ao đúng tiêu chuẩn).
Tóm lại:
Nhiệt độ
liên quan
đến
Nguyên nhân Giải pháp chủ đạo Giải pháp bổ sung
Độ sâu ao
Ao bị rò rỉ
Xử lý các chỗ rò rỉ, thẩm
lậu
Nắng nóng kéo dài
tăng cường quạt
khí.
Ao không đủ độ
sâu (<1m)
Thiết kế ao đủ độ sâu,
thiết kế ao chứa để bổ
sung nước khi cần
Mưa, nắng kéo dài
giảm lượng thức ăn
Mùa vụ
nuôi thả
Không thả
không đúng
mùa vụ
Thả đúng mùa vụ theo qui
định của cơ quan thuỷ sản
Cố gắng duy trì
màu nước ổn định
Giải pháp tốt nhất để quản lý nhiệt độ trong ao là thiết kế ao đủ độ sâu, hạn
chế thấp nhất rò rỉ, dâng nước cao dần trong quá trình nuôi và giữ ổn định
màu nước.
5/ Độ pH là gì và có ảnh hưởng như thế nào trong ao tôm ?
pH trong môi trường ao nuôi là độ chua của nước và nền đáy. Mức pH từ 7.5-
8.5 đối với tôm là phù hợp. pH trong ao phụ thuộc vào các yếu tố thổ nhưỡng,
lượng vôi bón, mật độ tảo và chế độ thay nước. Nếu pH dao động quá 0.5 đơn
vị trong một này thì hoạt động sống của tôm sẽ bị ảnh hưởng bất lợi
6/ Quản lý pH như thế nào cho tốt ?
Cải tạo ao thật tốt từ ban đầu. Chú ý dọn sạch các chất hữu cơ và bón đủ vôi
để cải thiện pH, lượng vôi bón tuỳ theo pH đất ở bảng sau:
Bảng 2: Bảng tương quan giữa lượng vôi bón để cải tạo ao và pH đất
pH
đất
Vôi nung
CaO
Vôi tôi
Ca(OH)2
Vôi nông nghiệp
CaCO3
Dolomite
CaMg(CO3)2
7.0 - - 500 500
6.0 500 700 1000 1000
5.0 750 1000 1500 1500
4.0 1000 1200 - -
(Nguồn: Công ty CP, 2002)
Bón CaCO3 hoặc Dolomite định kỳ 7-10 ngày một lần, mỗi lần bón 15-
20kg/ha. Bón liên tục 2-3 ngày để ổn định pH trong khoảng từ 7.5-8.5 và độ
kiềm trong khoảng 80-150 mgCaCO3/l. Duy trì màu nước ổn định, bằng bón
phân hợp lý kết hợp sử dụng đường cát, men vi sinh để ổn định màu nước.
Nếu mất màu phải gây lại màu (xem phương pháp gây màu). Có ao chứa để
chủ động thay nước khi có tình huống gấp xảy ra. Ở những vùng ao nuôi bị xì
phèn, cần phủ cát dày 30-40cm trên đáy ao để hạn chế xì phèn. Đồng thời bên
ngoài ao phải đào mương tiêu phèn rộng 40-50cm, sâu hơn đáy 40-50cm để
ép phèn từ đáy ao ra ngoài, không để phèn lưu lại trong ao gây ảnh hưởng đến
hô hấp của tôm và giảm lượng ô xy trong ao.
7/ Trong quá trình nuôi, nếu pH biến động cần làm gì ?
Khi pH trong ao thấp (<7.5), muốn tăng pH phải bón vôi CaCO3 vào buổi tối
(lúc 21h) bón 30-50 kg/ha/lần cho đến khi pH > 7.5 và ổn định. Nếu pH dao
động quá ngưỡng 7.5-8.5, chênh lệch > 0.5, và pH > 8.7 vào buổi chiều, màu
nước trong ao đậm (tảo dày). Tốt nhất là xử lý nước thật tốt ở ao chứa sau đó
thay nước từ từ, mỗi lần không quá 30% tổng lượng nước trong ao nuôi. Sau
đó bón CaCO3, Dolomite 30-50 kg/ha/lần và quạt khí khí, kiểm tra cho đến
đến khi pH đạt 7.5-8.5.
8/ Trong quá trình nuôi, gặp trời mưa, pH giảm thấp cần làm gì ?
Trước khi trời mưa, cần bón vôi nung (CaO) bờ ao liều lượng 20kg/1000m2,
bón Ca(OH)2 20 kg/1000 m3 nước ao. Sau mưa rút nước tầng mặt ao. Sau đó
bón vôi CaCO3 hoặc Dolomite 15-20 kg /lần để ổn định lại pH và độ kiềm.
Bón liên tục 2-3 ngày kết hợp quạt khí cho đến khi pH và độ kiềm ổn định.
Có thể bổ xung đường cát để giúp tảo phát triển trở lại, lượng bón 0.5-1
kg/1000m3. Giải pháp tốt nhất để quản lý pH là cải tạo ao thật kỹ, bón vôi
định kỳ. Quản lý thật tốt màu nước và có ao chứa để xử lý khi pH biến động.
9/ Quản lý Độ mặn (S‰) trong ao nuôi như thế nào cho tốt ?
Mức qui định phù hợp độ mặn khoảng 10-30‰, tôm sú phát triển tốt nhất ở
độ mặn 15-25‰. Biến động trong ngày không quá 5‰. Một nguyên tắc quan
trọng trong nghề tôm sú là giảm dần độ mặn và tăng dần độ sâu của nước
trong quá trình nuôi. Đầu vụ độ mặn cao, tôm ít nhiễm bệnh, tỷ lệ sống cao.
Cuối vụ độ mặn thấp, tôm mau lột xác chóng đạt cỡ thương phẩm và tránh
bệnh đóng rong. Độ mặn quá thấp, tôm dễ bị các bệnh mềm vỏ, chất lượng
thịt kém (không chắc) và khả năng đề kháng, phòng bệnh kém. Trước khi thả
tôm phải kiểm tra độ mặn, nếu độ mặn < 5‰ cần thuần hoá độ mặn từ trại
giống và ao ương. Nếu độ mặn thấp hơn 5‰, nên cho Vitamine C-Mix,
khoáng chất (Mutagen) và vaccine (Becta-min) nhất là khi tôm trong giai
đoạn tuổi 45 ngày trở lên. Trước khi thả tôm nên ngâm với Macroguard tối
thiểu 30 phút sẽ sẽ chịu đựng để thích nghi tốt trong môi trường có độ mặn
khác nhau. Độ mặn quá cao, tôm dễ bị nhiễm các bệnh do vi khuẩn và chậm
lớn (tôm khó lột xác). Độ mặn > 40‰, tôm giảm ăn, ảnh hưởng đến tăng
trọng tôm sau 1.5 tháng nuôi đầu, tôm khó lột xác. Năm 2002, ao nuôi ông
Đào (Xuân Lâm) và ông Hải (Diễn Kim) đã thành công nhờ có ao chứa điều
tiết độ mặn trong quá trình nuôi.
10/ Quản lý Oxy hoà tan (DO) như thế nào ?
Mức qui định phù hợp > 4 mg/l, tốt nhất 5-6 mg/l. Muốn quản lý tốt ô xy
buộc phải duy trì được màu nước (duy trì tảo) và sử dụng linh hoạt máy sục
khí (bảng 3).
Bảng 3: Hướng dẫn sử dụng máy quạt nước:
Ngày tuổi
Mục đích sử dụng
Cung cấp oxy Xử lý đáy
1-20 Trong quá trình ánh sáng thấp (trời u
ám)/trong khi trời mưa/sau khi thêm
nước
8-12 giờ về đêm, liên
tục trong 2-3 ngày
20-40 Như trên 8-12 giờ về đêm và 1-
2 giờ trước lúc cho ăn
40-80 Như trên, thêm máy quạt
80 đến lúc
thu tôm
Suốt ngày, trừ lức cho ăn
(Nguồn: P. Characchakool, 1999)
Hạn chế thấp nhất các chất thải lắng đọng trong nền đáy, là nguyên nhân làm
giảm hàm lượng ô xy- bằng cải tạo ao thật tốt, không để thừa thức ăn, định kỳ
sử dụng các chế phẩm làm sạch đáy như Zeolite, BRF2 ... Nếu oxy hoà tan
(DO) thấp hơn 4 mg/l phải sục khí nhiều hơn và thay nước nếu tôm nổi đầu
nhiều ngày. Kiểm tra và điều chỉnh thức ăn định kỳ, tránh dùng thức ăn tươi,
bổ sung Vitamine (C-mix) và khoáng chất (Mutagen) hoặc chất kháng thể
(vaccine) như Betamin khi tôm kém ăn, thời tiết thay đổi. Khi tảo quá dày,
oxy hoà tan buổi sáng quá thấp và buổi chiều quá cao phải ngừng bón phân,
kiểm soát lượng thức ăn cẩn thận, chạy sục khí về đêm. Với mật độ thả 1-7
con/m2 thường không cần dùng máy quạt. Với mật độ từ 8 con/m2 trở lên
buộc phải dùng máy quạt nước như sau: cứ 3.000-3.500 tôm giống hoặc tổng
trọng lượng tôm 100kg dùng một máy quạt nước.
11/ Độ trong và các yếu tố ảnh hưởng đến độ trong ?
Mức qui định phù hợp 30-45 cm. Độ trong quá thấp (< 20 cm), nước rất đục,
có thể là do mật độ tảo quá dày (màu nước đậm đặc) hoặc là do xác tảo hoặc
do phù sa lơ lửng. Nếu mật độ tảo quá dày gây hiện tượng thiếu ô xy vào sáng
sớm và pH tăng cao vào buổi trưa (xem them phần pH) khi đó. Giải pháp là
thay bớt 20-30% nước đã xử lý từ ao chứa để giảm mật độ tảo, sau đó bón vôi
CaCO3/ hoặc Dolomite 150-300kg/ha để lắng bớt bùn và tảo, ổn định pH duy
trì màu nước ổn định. Độ trong 20-30cm màu nước bắt đầu đậm đặc, nên cẩn
thận không để pH buổi sáng >8.0, thay bớt nước trong ao ngưng mở máy quạt
vào buổi chiều. Nếu độ trong thấp < 20cm, nước đục do phù sa lơ lửng, cần
để lắng ở ao chứa koảng 1-3 ngày cho đến khi trong sạch sau đó mới bơm vào
ao nuôi. Không lấy nước đục phù sa trực tiếp vào ao nuôi tôm. Nên trồng cỏ ở
quanh bờ ao để giũ bờ chắc, không rò rỉ, và không bị sói lở làm đục nước ao
khi trời mưa. Nếu nước ao bị đục sau khi mưa, phải bón vôi (bảng 1) để lắng
tụ các chất lơ lửng và làm trong nước để tảo hoạt động trở lại. Nếu độ trong >
60cm, màu nước rất nhạt, có thể nhìn thấy đáy, nếu tôm ở giai đoạn <50 ngày
tuổi nên dùng phân gà 20-30kg/1000m2, bỏ vào bao và treo trong ao. Sau đó
dùng Dolomite 15-20 kg/ha vãi theo hướng cánh quạt nước cho đến khi lên
màu thì dừng bón phân (xem thêm phần phương pháp gây màu hữu cơ). Quản
lý tốt màu nước, theo dõi độ trong, sử dụng vi sinh và dolomite định lỳ là giải
pháp tốt để duy trì độ trong từ 30 đên 45 cm.
12/ Độ sâu và quản lý độ sâu phù hợp như thế nào ?
Mức qui định phù hợp >1 m cho ao quảng canh cải tiến và > 1,2 m cho ao bán
thâm canh trở lên. Độ sâu có liên quan mật thiết đến biến động nhiệt độ và
màu nước trong ao. Nhiệt độ dao động sẽ làm tôm bị căng thẳng, giảm ăn và
dễ nhiễm bệnh. Nước quá nông (độ sâu <80 cm) và trong, tảo đáy dễ phát
triển gây thối đáy (xem thêm phần tảo đáy). Thường xuyên kiểm tra các chỗ
rò rỉ và bịt kín ngay lập tức, tránh thẩm lậu mất nước trong quá trình nuôi.
Nếu ao bị rò rỉ, bay hơi nhiều phải bổ xung nước từ ao chứa cho đủ độ sâu >1
m. Năm 2002, hầu hết các ao thất bại hoặc là do độ sâu không đảm bảo
(<0.8m) hoặc là do ao có diện tích quá nhỏ (4000m2 - nuôi quảng canh). Ở
Hoằng Phong và Xuân Lâm Thanh Hoá (2002), hầu hết ao đầm không đảm
bảo độ sâu, các hộ đều gặp khó khăn trong quản lý màu nước, rong đáy
thường xuyên xuất hiện. Một nguyên tắc quan trọng là phải tăng dần mức
nước trong ao và giảm dần độ mặn trong quá trình nuôi. Thiết kế ao chứa và
máy bơm để chủ động điều tiết nước trong quá trình nuôi. Muốn nuôi tôm sú
thành công thì ao đầm tối thiểu phải đạt độ sâu trên 1 m nước
13/ Màu nước và quản lý màu nước phù hợp như thế nào?
Nuôi tôm là nuôi nước, muốn nuôi tôm thành công thì phải giữ được màu
nước. Giữ được màu nước tức là giữ được nguồn thức ăn cho tôm và giữ
được môi trường sống tốt cho tôm sinh trưởng phát triển. Nước có màu xanh
đọt chuối hay màu vàng nâu là tốt nhất, duy trì độ trong 30-45 cm. Muốn duy
trì màu nước thì phải duy trì được các yếu tố môi trường nước ổn định. Để
làm được điều này ao đầm phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật. Phải có ao
chứa, độ sâu đảm bảo ( >1m) và phải bón phân gây màu, sử dụng một số chế
phẩm sinh học. Định kỳ quan sát màu nước và bón phân hợp lý theo 1 trong 2
phương pháp vô cơ hoặc hữu cơ.Định kỳ dùng men vi sinh BRF2, Aquabac,
Bacciluss 1070 vv..để bón xuống ao, thúc dẩy vi khuẩn có lợi phát triển. Định
kỳ 10 ngày bón vôi nông nghiệp (CaCO3) hoặc Dolomite, mỗi lần 10-20kg/ha
sau đó có thể bổ xung đường cát 0.5-1 kg/1000m3 nước. Ở các vùng đáy cát
nhiều, độ mặn cao khó gây màu nên sử dụng phương pháp gây màu hữu cơ
hoặc các thuốc gây màu tảo như BOOM-D kết hợp Bio-premix. Trước khi
gây màu nước cần kiểm tra các thông số như pH (7.5-8.5), độ kiềm (80-150
ppm), NH3 (<0.1mg/l), H2S (<0.03 mg/l) nếu thích hợp thì mới được phép
gây màu. Ở các ao nuôi bán thâm canh và thâm canh, có thể gây màu từ ao
chứa và bổ sung sang ao nuôi khi cần thiết.
14/ Tại sao lại gọi các khí Amonia tự do (NH3) và Hydrosulfide (H2S) là
khí độc ?
Mức qui định phù hợp. < 0.1 ppm cho NH3, độc hơn khi pH cao. <0.03 ppm
cho H2S, độc hơn khi pH thấp. NH3 và H2S tác động đến hô hấp, nếu xuất
hiện dài ngày sẽ làm giảm sinh trưởng, tôm còi chậm lớn. Hầu hết các ao nuôi
hàm lượng NH3 và H2S cao là do hàm lượng hữu cơ quá nhiều, không cải tạo
sạch triệt để từ ban đầu hoặc trong quá trình nuôi cho ăn quá nhiều, cho ăn
thức ăn tươi và thức ăn bị ẩm mốc, kém chất lượng. Kết quả là nước bị ô
nhiễm, tôm kéo đàn và nhiễm bệnh. Để phòng ngừa tác hại của NH3 và H2S
nên thiết kế ao chứa để chủ động nước, có máy quạt khí để xử lý khi cần.
15/ Quản lý NH3 và H2S như thế nào thì hiệu quả ?
Cải tạo ao thật tốt, loại bỏ hết chất hữu cơ (nạo vét đáy sau mỗi vụ nuôi). Ở
những vùng có tầng sinh phèn tiềm tàng không nên đào ao sâu vào tầng này
mà lên đắp cao bờ và xây dựng kênh tiêu phèn (rộng 40-50 cm, sâu hơn đáy
40-50cm) quanh bờ ao. Sử dụng thức ăn cho phù hợp, không dùng thức ăn
tươi, thức ăn kém chất lượng. Duy trì ổn định pH, không để pH quá 7.5-8.5,
nếu không NH3 và H2S sẽ gây độc cho tôm. Duy trì màu nước vì màu nước
tốt sẽ giữ cho độ độc của NH3 và H2S ở mức thấp. Điều chỉnh mức ô xy hoà
tan sao cho không thấp hơn 5 mg/l để vi khuẩn có thể làm việc tốt, loai bỏ các
chất hữu cơ tồn dư bằng cách thêm các máy cung cấp oxy. Sử dụng định kỳ
các chế phẩm hấp thụ NH3 và H2S, cải thiện nền đáy như Zeolite, BRF2,
Baccillus 1070 vv..
16/ Khi NH3 và H2S trong nước quá cao, cần xử lý như thế nào ?
Khi NH3 và H2S vượt quá tiêu chuẩn bảng 1. Giải pháp đầu tiên là thay bớt
20-30% nước đã xử lý từ ao chứa. Sau đó tăng cường sục khí. Nếu không có
ao chứa phải sử định kỳ sử dụng Zeolite 10-20kg/1000 m3 nước. Sau đó cấy
men vi sinh BRF2, Aquabac, Bacciluss 1070, định kỳ sử dụng Zeolite, duy trì
màu nước để ổn định pH.
17/ Độ kiềm là gì ?
Độ kiềm là chỉ tiêu đánh giá khả năng đệm của nước ao nuôi tôm. Hiện thị
khả năng tự điều chỉnh giá trị pH của thuỷ vực trước những thay đổi của các
nhân tố từ bên trong hoặc bên ngoài. Mức qui định phù hợp: Tôm mới thả :
80-100ppm (không nên thấp hơn 50ppm), từ 45 ngày tuổi trở lên: 100-130
ppm; 90 ngày tuổi trở lên: 130-160 ppm. Độ kiềm có vai trò quan trọng trong
việc tạo vỏ, lột xác của tôm. Khi tôm lột xác độ kiềm giảm. Độ kiềm liên hệ
mật thiết tới sự biến động của giá trị pH và sự ổn định màu nước (tảo). Trong
khoảng độ kiềm thích hợp pH rất ít khi dao động quá 0.3 đơn vị/ngày. Nuôi
tôm ở độ mặn thấp, độ kiềm thường xuyên thay đổi. Cần hết sức chú ý bón
vôi định kỳ (chỉ bón 1 trong 2 loại CaCO3 hoặc Dolomite) để bổ sung độ
kiềm cho ao.
18/ Quản lý độ kiềm trong ao như thế nào là tốt ?
Cải tạo ao thật tốt, bón vôi theo pH đất (bảng 2). Duy trì màu nước bằng bón
phân định kỳ, sử dụng các chế phẩm sinh học BRF2, Aquabac, Bacciluss
1070. Bón vôi nông nghiệp (CaCO3) lượng 10-20 kg/ha hoặc Dolomite 10-15
kg/ha định kỳ 7-10 ngày/lần. Vào thời kỳ con nước, cần xử lý nước thật tốt ở
ao chứa, bón vôi, gây màu tăng độ kiềm sau đó kích sang ao nuôi để tôm lột
xác hoàn toàn. Trong quá trình nuôi, nếu độ kiềm thấp < 80 mg CaCO3 và:
Nếu pH 8: bột vỏ sò 100-200 kg/ha/lần.
Làm liên tục 2-3 ngày cho đến khi độ kiềm đạt > 80 mgCaCO3/l. Năm 2002
cho thấy, ở ao ông Hồ Trình (Quỳnh Bảng), khi cải tạo ao bón CaCO3 với
nồng độ cao 12 tấn/8000m2 và trong quá trình nuôi sử dụng Zeolite định kỳ
(10-20 kg/ha) cho kết quả màu nước và pH rất ổn định.
19/ Chế phẩm sinh học là gì và chúng có thể thay cho các kháng sinh
được không? Nên sử dụng thuốc và hoá chất như thế nào? Tại sao có
nhiều loại sản phẩm không mang lại kết quả tốt dù rất đắt?
Về nguyên tắc, 2Lúa khuyến cáo tốt nhất là hạn chế thấp nhất việc sử dụng
thuốc hoá chất trong quản lý môi trường ao nuôi tôm sú. Nên áp dụng các
biện pháp kỹ thuật như thiết kế ao chứa lắng, độ sâu ao trên 1m, duy trì màu
nước, bón vôi định kỳ vv...và sử dụng các chế phẩm sinh học để quản lý môi
trường. Bất đắc dĩ mới phải sử dụng hoá chất, giảm và từng bước không sử
dụng hoá chất ngay trong ao nuôi.
Trong những trường hợp bất khả kháng, dự án khuyến cáo bà con chỉ nên sử
dụng vôi (các loại), Formol, Zeolite, Chlorinre, BKC, đường cát, Thuốc tím
(KMnO4), H2O2 đây là những chế phẩm sử dụng khá hiệu quả và không gây
nhiều nguy hiểm cho tôm, môi trường và sức khỏe người sử dụng.
Bảng 4: Hướng dẫn quy đổi ký hiệu ppm khi sử dụng.
Tài liệu ghi
Hướng dẫn sử dụng
Dạng lỏng Dạng rắn (bột)
Sử dụng
Chlorine 10
ppm
Có nghĩa là 10 ml Chlorine
hoà tan trong 1 m3 nước ao
nuôi tôm.
Có nghĩa là 10 mg Chlorine hoà
tan trong 1 lít nước ao nuôi tôm.
Hoặc 10 lít Chlorine hoà tan
trong 1000 m3 nước ao nuôi
tôm.
Hoặc là 10 g Chlorine hoà tan
trong 1 m3 nước ao nuôi tôm.
Hoặc 100 lít Chlorine hoà tan
trong 10.000 m3 nước ao
nuôi tôm (ao sâu 1 m, diện
tích 1 ha).
Có nghĩa 10 kg dùng cho 1000
m3 nước ao, hay 100 kg Chlorine
dùng cho 10.000 m3 (diện tích 1
ha, sâu 1 m)
B/ QUY TRÌNH QUẢN LÝ AO NUÔI TÔM
1/ Cách cải tạo ao như thế nào cho đảm bảo ?
Dọn sạch các chất hữu cơ ra khỏi ao (nạo vét đáy, nhặt rác vv..). Rào lưới
ngăn cua. Dâng nước đầy, ngâm súc rửa ao khoảng 2-3 ngày để thau phèn,
đẩy các chất bẩn. Làm liên tục 2-3 lần cho đến khi sạch ao thì thôi. Công việc
này thường tiến hành trước khi thả tôm khoảng 1 tháng. Phơi ao cho se đáy,
sau đó cày lật, bón vôi, phơi đáy 10-15 ngày trước khi lấy nước gây màu,
lượng vôi bón tuỳ thuộc pH đất (bảng 2). Sau đó bừa đáy, làm phẳng. Có thể
bón phân NPK (20-20-0) 200-300kg/ha nếu đáy xấu (nghèo dinh dưỡng). Sau
đó lọc nước, xử lý nước, sau 5-7 ngày tiến hành gây màu theo một trong hai
phương pháp vô cơ hoặc hữu cơ. Chú ý gây màu trước khi