Lớp trong niêm mạc dạ dày cơ có nhiều tuyến nhỏ. Chúng tiết ra chất keo dính phủ lên lớp biểu bì niêm mạc của dạ dày cơ một lớp màng sừng dai cứng gọi là mô sừng (cutin), có tác dụng bảo vệ niêmmạc thành dạ dày khỏi bị tổn thương khi nghiền nát thức ăn cứng như thóc, sạn sỏi. Màng sừng này luôn luôn bị bong ra do cọ xát khi hoạt động và cũng luôn được bổ sung do sản phẩm của tuyến tiết ra.
28 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 5374 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cáu tạo hệ tiêu hóa và sinh dục của gia cầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29
rắn tạo thành. Nó có thể xem như hạ vị của dạ dày loài có vú và có
chức năng đặc biệt.
Lớp trong niêm mạc dạ dày cơ có nhiều tuyến nhỏ. Chúng tiết
ra chất keo dính phủ lên lớp biểu bì niêm mạc của dạ dày cơ một lớp
màng sừng dai cứng gọi là mô sừng (cutin), có tác dụng bảo vệ niêm
mạc thành dạ dày khỏi bị tổn thương khi nghiền nát thức ăn cứng
như thóc, sạn sỏi. Màng sừng này luôn luôn bị bong ra do cọ xát khi
hoạt động và cũng luôn được bổ sung do sản phẩm của tuyến tiết ra.
Chức năng chủ yếu của dạ dày cơ là nghiền nát thức ăn ngũ
cốc. Trong dạ dày cơ thường có một số lương nhất định các hạt cát,
sạn, sỏi nhỏ. Những hạt này giúp cho việc nghiền nát thức ăn ngũ
cốc dễ dàng khi dạ dày cơ co bóp.
Sự co bóp của dạ dày cơ diễn ra có chu kỳ, bình quân cứ 20 -
30 giây co bóp một lần. Khi đói nhịp co bóp chậm, khi no co bóp
tăng lên. Áp lực xoang dạ dày cơ khi co bóp tăng lên rất cao, đạt tới
140 mmHg ở gà, 100 mmHg ở vịt, 265 mmHg ở ngỗng, tạo thuận
lợi cho việc nghiền nát thức ăn cứng.
Dạ dày cơ không có tuyến dịch vị, sự tiêu hoá hoá học ở đây
do tác dụng của dịch vị từ dạ dày tuyến xuống. Dưới tác dụng của
axit HCl trong dạ dày cơ, các tế bào thực vật bị phá huỷ, protein
phồng và xốp lên. Dưới tác dụng của men pepxin, protein phân giải
thành pepton. Trong dạ dày cơ còn có quá trình phân giải
hydratcacbon dưới ảnh hưởng của vi khuẩn có trong thức ăn.
2.2.4.2.5. Tiêu hoá ở ruột
Ruột non của gia cầm đầu trên giáp với dạ dày cơ, đầu dưới
giáp với manh tràng. Ruột già của gia cầm không phát triển, nó do
trực tràng thô ngắn và 2 manh tràng đổ vào đoạn đầu trực tràng tạo
thành.
Thành ruột cũng có lớp nhung mao nhăn nheo. Các tuyến tiêu
hoá phân bố suốt dọc thành niêm mạc ruột. Riêng gà và gà tây không
30
có tuyến tá tràng (tuyến Bruuner). Ngược lại, tuyến tuỵ của gia cầm
rất phát triển.
Ở tá tràng, các chất được tiêu hoá và hấp thu với tốc độ mạnh
dưới tác dụng của mật, tuyến tuỵ và tuyến ruột. Dịch mật được tiết ra
từ gan, có màu xanh lá cây và sánh nhầy. Dịch mật chứa 78-80%
nước, 20-22% chất đặc, trong đó có axit mật, keo, cholesterin, muối
vô cơ và sắc tố mật (bilirubin, biliverdin). Dịch mật của gia cầm
khác với gia súc là trong thành phần của nó chứa axit xtearic.
Axit HCl cùng với nhũ chấp được chuyển từ dạ dày vào tá
tràng, dưới tác dụng của HCl, hocmon dịch tràng được hình thành ở
màng nhầy tá tràng và theo máu đến tuyến tuỵ và kích thích tuyến
tuỵ tiết dịch tuỵ. Dịch tuỵ lỏng, trong suốt có phản ứng kiềm yếu, pH
= 7,2-7,5. Trong dịch tuỵ có nhiều men tripxin, erepxin, amylaza,
mantaza, lipaza.
Thông qua kích thích cơ học vào màng nhầy, tuyến ruột tiết
ra dịch ruột. Dịch ruột có tỉ trọng 1,076, phản ứng kiềm pH = 7,42,
màu đục. Trong dịch ruột có chứa men enterpkinaza, erepxin,
amylaza, mantaza.
Tiêu hoá ở ruột già cũng có hai quá trình lên men và thối rữa.
Lên men xảy ra mạnh ở manh tràng, thối rữa ở trực tràng. Manh
tràng gia cầm khá phát triển nên quá trình lên men tương đối mạnh,
nhất là những gia cầm ăn nhiều thức ăn thực vật thô sơ. Ruột của gia
cầm nói chung tương đối ngắn, thức ăn lưu lại không quá một ngày
đêm.
Đầu cuối của trực tràng đổ vào một xoang chung gọi là xoang
tiết niệu - sinh dục. Nó do bốn bộ phận thông với nhau tạo thành.
Trực tràng thông với bộ phận lớn nhất gọi là bộ phận đường phân
(A); tiếp theo về sau gọi là ngăn bài tiết chung (B), ống dẫn tinh
(hoặc ống dẫn trứng) và ống dẫn nước tiểu đều đổ chung vào đây;
tiếp theo là hậu môn (C); và bộ phận thứ tư là túi phabuli (D).
31
Khi thức ăn chuyển xuống đoạn cuối ruột già, nước được hấp
thu mạnh, phần bã còn lại ở trạng thái đặc, khi đi vào xoang tiết niệu
sinh dục nó hỗn hợp với nước tiểu trở nên sền sệt. Phân gia cầm thải
ra ngoài nổi trên mặt một màu trắng hạt bã đó là các thể urat (muối
kết tinh của axit uric). Cấu tạo xoang tiết niệu-sinh dục của gia cầm
(hình 2.5)
ấp thu
Sự hấp thu các chất dinh dưỡng ở gia cầm cơ bản giống loài
có vú, chủ yếu ở đoạn ruột non nhờ các nhung mao tăng diện tích
hấp thu.
Manh tràng ruột già có thể hấp thu nước, muối khoáng, các
chất chứa nitơ, các sản phẩm lên men xelluloz (các axit béo bay
hơi). Xoang tiết niệu sinh dục hấp thu nước.
Quá trình hấp thu ở ruột diễn ra chậm, nhưng do diện
tích bề mặt lớn cho nên vẫn đảm bảo các chất dinh dưỡng cho cơ
thể. Diện tích màng nhầy (tính theo cm2) của toàn bộ ruột của gà là
1600-2400, của vịt là 1200-1800, của ngỗng là 5500-6000, của gà
A
B
C
D
ống dẫn tinh
(ống dẫn trứng)
ống dẫn nước tiểu
Hình 2.5:Xoang tiết
niệu sinh dục
A. Đường phân
B. Ngăn bài tiết chung
C. Hậu môn nguyên thuỷ
D. Túi phabuli
32
tây là 5000-9000 (Theo Tecver - trích từ Nguyễn Mạnh Hùng và
CTV, 1994).
2.2.5.Hệ tuần hoàn
Như các loài động vật khác, hệ tuần hoàn của gia cầm gồm
tim và mạch quản. Trung tâm của hệ tuần hoàn là tim. Tim có dạng
hình nón. Khối lượng của tim ở gia cầm khác nhau tuỳ thuộc vào
loài. Ở gà tim có khối lượng là 4,4g/1kg khối lượng sống, ở ngỗng là
8g/kg, còn ở vịt là 7,44g/kg khối lượng sống. Tần số tim đập ở gia
cầm trưởng thành 200-300 lần/phút, ở gia cầm non là 400-500
lần/phút.
Máu là tổ chức lỏng, là môi trường bên trong của cơ thể (nội
môi) tạo môi trường sống cho tế bào cũng như cung cấp dinh dưỡng
và ôxy cho tế bào, mô và toàn cơ thể. Máu gia cầm chiếm 8,5-9%
khối lượng cơ thể, có pH là 7,42-7,48. Trong máu có hồng cầu.
Hồng cầu gia cầm khác với hồng cầu gia súc là chúng có dạng ô van
dài, có nhân. Thời gian sống của hồng cầu là 90-120 ngày. Phần lớn
nitơ và axít amin trong tế bào nằm trong nhân của nó. Số lượng hồng
cầu phụ thuộc tuổi, giống, trạng thái khi nghiên cứu máu. Trong 1
mm
3
máu có chứa 3,3-3,6 triệu hồng cầu (ở gà mái là 2,5-3,0 triệu,
trên 3 triệu ở gà trống). Bạch cầu chia 2 nhóm là nhóm có bắt màu
và nhóm không bắt màu. Trong 1 mm3 máu có chứa 20-34 triệu bạch
cầu. Số lượng phụ thuộc giống, tuổi, cá thể...
Trong huyết tương máu của gia cầm không có kháng thể mà
kháng thể chỉ có trong bạch cầu. Trong bạch cầu đã xác định có 63
loại kháng thể khác nhau. Kháng thể được di truyền và không thay
đổi trong suốt quá trình sống của gia cầm. Do vậy, nhóm kháng thể ở
mỗi loại gia cầm là đặc trưng cho cá thể và có thể sử dụng trong
công tác chọn giống.
2.2.6.Hệ bài tiết và sinh dục gia cầm trống
Hệ bài tiết gồm 2 quả thận dính sát cột sống và 2 ống dẫn
nước tiểu đỗ ra lỗ huyệt, gia cầm không có bọng đái (hình 2.5).
33
Thận, ngoài chức năng bài tiết nước tiểu còn có tác dụng quan
trọng trong sự cân bằng muối-nước và áp lực thẩm thấu của mô bào.
Tuỳ thuộc vào độ pH của máu mà thận phân tiết nhiều hơn hay ít
hơn các yếu tố kiềm hoặc axít giữ cho máu có phản ứng cần thiết.
Mỗi ngày gà nhận 240-250 cm3 nước và thải ra 120-130 cm3 nước
tiểu. Nếu gà thiếu nước một vài giờ thì sẽ phát sinh stress làm giảm
sức đẻ, sinh trưởng và khối lượng sống giảm, đồng thời nảy sinh một
số hậu quả nghiêm trọng khác.
Hình 2.5: Hệ bài tiết và sinh dục gia cầm trống
V.C. khí quản; T. tinh hoàn; V.il. phế quản; K. thận;
D.d. ống dẫn tinh; Ur. ống dẫn nước tiểu; Cl. lỗ huyệt.
Cơ quan sinh dục gia cầm trống bao gồm 2 tinh hoàn nằm sát
cột sống, trước thận một ít, 2 ống dẫn tinh, tuyến sinh dục phụ và gai
34
giao cấu. Tinh hoàn có dạng hình trứng hoặc hạt đậu, bình thường
tinh hoàn bên trái có kích thước lớn hơn tinh hoàn bên phải. Tinh
hoàn nằm phía dưới và trước thận. Trong mùa sinh sản tinh hoàn có
thể tăng kích thước lên 200-300 lần. Từ mỗi tinh hoàn nối ra ống dẫn
tinh và đổ vào hậu môn với lỗ mở hoặc thông qua gai giao cấu. Gà
con 1 ngày tuổi có thể phân biệt đực cái thông qua xem gai giao cấu,
sau thời gian đó không thể phân biệt được. Ở ngỗng, vịt gai giao cấu
phát triển hơn ở gà.
Trong tinh hoàn hình thành tế bào sinh dục đực - tinh trùng.
Sự sản sinh tinh trùng cũng giống như ở các loài gia súc khác.
2.2.7. Hệ sinh dục cái và quá trình hình thành trứng ở gia
cầm
Quá trình sinh sản ở gia cầm mái khác nhau rất cơ bản so với
ở gia súc. Sinh sản ở gia cầm thông qua việc đẻ trứng. Trứng được
thụ tinh bên trong đường sinh dục cái. Phôi phát triển ngoài cơ thể
mẹ và đòi hỏi những điều kiện nhất định.
Giai đoạn đầu của quá trình phát triển phôi, cơ quan sinh dục
ở gia cầm không có sự phân biệt đực cái. Sự phân hoá giới tính chỉ
xảy ra từ tuần thứ hai của quá trình phát triển phôi. Ở gia cầm cái chỉ
có buồng trứng và ống dẫn trứng bên trái phát triển (trừ bồ câu),
nguyên nhân của sự mất đi của buồng trứng và ống dẫn trứng bên
phải chưa được xác định và giải thích thoả đáng.
Buồng trứng bên trái phân bố một vùng trong xoang bụng
(trước thận trái). Kích thước của buồng trứng thay đổi rất lớn phụ
thuộc vào loài gia cầm, tuổi, thời gian đẻ...Gà một ngày tuổi có kích
thước buồng trứng 1-3 mm, khối lượng 0,03g. Khi thành thục sinh
dục buồng trứng có chiều dài 10-15mm, rộng 10mm, dày 3-4mm và
có khối lượng là 0,3-0,5g. Lúc gà 18-20 tuần tuổi buồng trứng nặng
20g, lúc gà đẻ trứng cao nhất buồng trứng nặng 40-60g. Sự tăng khối
lượng của buồng trứng được xác định là do sự phát triển của 3-4
noãn bào. Mỗi noãn bào đạt đến đường kính chừng 40mm.
35
Buồng trứng được tạo thành từ 2 lớp: lớp vỏ và lớp trung tâm.
Khi chưa thành thục (gia cầm chưa thành thục về tính) lớp vỏ của
buồng trứng được phủ các tế bào hình trụ (biểu mô hình trụ). Dưới
đó là lớp tổ chức liên kết, trong đó phân bố các noãn bào. Dưới kính
hiển vi quan sát thấy có tới 12.000 noãn bào. Phần trung tâm là các
tổ chức liên kết có chứa thần kinh, mạch quản, cơ trơn.
Hình 2.6: Cơ quan sinh dục gia cầm mái
1. cuống buồng trứng; 2. tế bào trứng nhỏ; 3. tế bào trứng chín ; 4. lòng
loa kèn; 5. cổ loa kèn; 6. phần phân tiết lòng trắng; 7. phần eo có chứa
trứng; 8. tử cung; 9. âm đạo; 10. phần còn lại của ống dẫn trứng bên trái;
12. lỗ huyệt.
8
1
3
4
7
10
11
9
6
5
2
36
Khi gia cầm thành thục về tính, buồng trứng bao gồm nhiều tế
bào trứng. Số tế bào trứng có trong buồng trứng gà mái (theo
Jull,1967) là 3.600, tuy vậy gà mái đẻ trứng tốt nhất cho đến nay là
1.500 quả.
Như vậy còn một khoảng cách lớn giữa tiềm năng năng suất
trứng và năng suất thực tế. Điều đó cho phép đi sâu tìm hiểu các
biện pháp để nâng cao sức sản xuất trứng ở gà. Tại buồng trứng mỗi
tế bào trứng được bọc trong một túi nhỏ đính vào cuống buồng
trứng. Trên bề mặt noãn bào có nhiều mạch máu để nuôi tế bào
trứng. Thời gian từ khi hình thành trứng cho đến khi trứng chín và
rụng khoảng 7-10 ngày.
Ống dẫn trúng ở gia cầm được chia thành 5 phần với độ dài
ngắn khác nhau và có chức năng không giống nhau (hình 2.6).
+ Loa kèn: Loa kèn là phần đầu của ống dẫn trứng với chức
năng hứng trứng. Trứng được thụ tinh ở phần loa kèn. Niêm mạc ở
phần loa kèn tiết ra chất tiết có tác dụng nuôi dưỡng tinh trùng. Tinh
trùng có thể sống tại phần loa kèn được 1-30 ngày. Nhưng hoạt lực
thụ tinh tốt nhất từ 1-7 ngày. Trứng rơi vào phần loa kèn và lưu lại
tại đây 5-25 phút. Sau đó nhờ nhu động của ống dẫn trứng mà trứng
được di chuyển tiếp tục xuống các phần sau của ống dẫn trứng.
+ Phần phân tiết lòng trắng trứng: Là phần tiếp theo ngay loa
kèn của ống dẫn trứng có chiều dài bằng 80% chiều dài toàn bộ ống
dẫn trứng. Chức năng là sản sinh ra lòng trắng trứng. Chừng 40-50%
lòng trắng trứng được hình thành từ đoạn này, phần lòng trắng còn
lại sẽ tiếp tục được hình thành ở phần sau của ống dẫn trứng. Trứng
dừng lại ở phần phân tiết lòng trắng trứng không quá 3 giờ.
+ Phần eo của ống dẫn trứng: Tiếp theo phần phân tiết lòng
trắng, phần eo có chức năng hình thành màng vỏ trứng và một phần
lòng trắng trứng. Qua khỏi phần eo hình dạng của trứng được hình
thành. Trứng dừng lại ở phần eo khoảng 75 phút.
37
+ Tử cung: Là phần phình to tiếp theo phần eo, có chiều dài
băng 10% chiều dài ống dẫn trứng. Tại tử cung phần lòng trắng tiếp
tục được sinh ra và thấm qua màng vỏ trứng vào trứng. Ngay khi
trứng vào đến phần eo thì đầu trước của nó hình thành vỏ lụa (màng
dưới vỏ trứng), sau đó vỏ cứng được hình thành dần dần (vỏ đá vôi).
Thời gian trứng lưu lại ở tử cung là 16-20 giờ. Tại tử cung màu sắc
của vỏ trứng cũng được hình thành.
+ Âm đạo: Là phần tận cùng của ống dẫn trứng, có chức năng
sinh ra lớp màng mỡ bao bọc vỏ trứng. Lớp màng mỡ này giúp cho
gia cầm dễ đẻ, ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn vào trong trứng,
hạn chế sự bốc hơi nước của trứng. Lớp màng mỡ tạo nên độ bóng
giúp ta phân biệt được trứng cũ và trứng mới.
Như trên đã trình bày, trứng được tổng hợp một phần ở buồng
trứng một phần ở ống dẫn trứng. Sự hình thành trứng là một quá
trình phức tạp có sự tham gia của hormone. Tuy lòng đỏ trứng được
hình thành ở buồng trứng, nhưng hàm lượng protein của nó lại được
tổng hợp ở các phần khác nhau của cơ thể mà chủ yếu ở gan và thận.
Mỡ của trứng được tổng hợp nên có nguồn gốc trực tiếp từ lipit của
khẩu phần và một phần lớn hơn lại từ giải phóng mỡ ở các kho dự
trữ mỡ trong cơ thể. Protein và mỡ được chuyển qua máu đến buồng
trứng tham gia hình thành trứng.
Mất vài ngày để lòng đỏ hình thành ở buồng trứng, phần còn
lại được hình thành trong ống dẫn trứng. Lòng đỏ trứng (tế bào sinh
dục cái) được phóng thích từ buồng trứng và tiếp tục hoàn thiện
trong ống dẫn trứng. Sự thụ tinh của trứng phụ thuộc vào sự hợp
nhất của tinh trùng và đĩa phôi hoặc nhân của trứng. Quá trình này
diễn ra trong phần đầu của ống dẫn trứng trước khi các phần khác
của trứng được bổ sung. Sự thụ tinh diễn ra là kết quả của sự gặp gỡ
giữa trứng và tinh trùng, còn sự hình thành trứng không phụ thuộc
trứng có được thụ tinh hay không. Trứng mất 5 phút ở phần loa kèn,
3 giờ ở phần phân tiết lòng trắng, 1 giờ 15 phút ở phần eo để hình
38
thành màng vỏ trứng. Nếu phần eo thắt không bình thường thì có thể
dẫn đến thay đổi hình dạng trứng. Sự hình thành albumin ở tử cung
hoặc tuyến vỏ mất 12-20 giờ. Vỏ được hình thành chậm ở nửa đầu
của giai đoạn trứng trong tử cung và nhanh chóng hơn ở nửa còn lại.
Chất hoá học sử dụng để hình thành vỏ trứng chủ yếu là canxi và
photpho có nguồn gốc một phần từ khẩu phần và một phần giải
phóng ra từ xương. Kho dự trữ chất khoáng này trong xương bắt đầu
được giải phóng ra trước khi gia cầm vào đẻ trứng 2 tuần. Các chất
hình thành vỏ trứng được chuyển vào máu đến tử cung, không có
phần nào của vỏ được hình thành ở âm đạo và thời gian trứng lưu lại
đó là không đáng kể (bảng 2.2).
Bảng 2.2:Thời gian trứng lƣu lại trong các phần của ống dẫn
trứng ở gà
Các phần của
ống dẫn trứng
Thời gian lưu lại
Giờ % trong tổng thời
gian
Phần loa kèn
Phần phân tiết lòng trắng
Phần eo
Tử cung
Âm đạo
Cộng
0.33
3.00
1.17
19
rất ngắn
23.5
1.4
12.8
5.0
80.8
100.0
Bảng 2. 3: Chiều dài các phần của ống dẫn trứng ở vịt và gà
(theo David Farrell và Paul Stapleton, 1986 )
Các phần
ống dẫn
trứng
Vịt nhà Vịt
khakicampbell
Gà nhà
Loa kèn 4,8cm
11%
6,9cm 15% 9,0cm
12,0%
Phân tiết lòng
trắng
24,4cm
52%
24,3cm 54% 32,0cm 42%
Eo 10,6cm 7,9cm 18% 14.0cm
18,4%
39
22%
Tử cung 7,3cm
15%
5,9cm 13% 21cm 27,6
Tổng cộng 47,2cm
100%
45cm 100% 76cm 100%
Bảng 2. 4: Thời gian hình thành trứng ở vịt và gà (giờ)
(theo David Farrell và Paul Stapleton, 1986 )
Các phần
ống dẫn
trứng
Vịt nhà Vịt
khakicampbell
Gà nhà
Loa kèn 0,16 + 0,25 0,16 + 0,08 0,40 + 0,18
Phần trước
khi vào tử
cung
4,50 + 0,60 5,41 + 1,10 5,66 + 0,42
Phần sau tử
cung
24,41 24,00 25,42
Tại tử cung 18,19 16,59 19,76
Thời gian trứng di chuyển từ loa kèn đến khi ra ngoài khoảng
24 giờ. Được sự điều chỉnh, kiểm tra của hormon, một tế bào trứng
không được phóng thích khỏi buồng trứng trước khi quả trứng trước
được đẻ ra nửa giờ. Như vậy một giai đoạn khoảng 24,5 giờ là chu
kỳ bình thường của 2 quả trứng được sinh ra từ cùng một gia cầm
mái. Ở gà, quả trứng thứ 2 được đẻ ra chậm hơn một chút trong ngày
hôm sau so với quả trứng đầu và sau một khoảng thời gian đẻ (chu
kỳ đẻ) có 1 hoặc hơn 1 ngày gia cầm mái nghỉ đẻ. Các hoạt động của
hormon là khá đồng bộ để các quả trứng bình thường được hình
thành và chỉ có một quả trứng trong ống dẫn trứng trong cùng một
thời gian. Gà đẻ trứng trong khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 5 giờ
chiều, trong khi đó nhịp độ ngày đêm là 12 giờ (ở vùng nhiệt đới).
Gà nhà đẻ trứng theo chu kỳ từ 1-5 quả, giữa khoảng đó có nghỉ đẻ.
40
Chu kỳ dài hơn, thời gian nghỉ ngắn hơn gia cầm sẽ cho trứng nhiều
hơn. Màu sắc vỏ trứng, chất lượng ngoài của trứng thay đổi không
đáng tin cậy ở những gà đẻ trứng liên tục.
Đôi khi ống dẫn trứng bị kích thích bởi các tác nhân bên
ngoài tác động đến việc tổng hợp lòng trắng trứng. Điều đó cũng ảnh
hưởng đến việc hình thành lòng đỏ trứng, kích thích buồng trứng
phóng thích ra một vài tế bào trứng cùng một lúc. Đó chính là
nguyên nhân để gia cầm mái đẻ ra một quả trứng có 2 lòng đỏ, 2 quả
trứng trong 1 ngày ở một số trường hợp hoặc các quả trứng không
bình thường khác.
2.2.8.Vai trò của hormon trong hoạt động sinh sản ở gia
cầm
Hormon không chỉ điều hoà hoạt động sống mà còn gắn liền
với quá trình hình thành trứng, hoạt động sinh sản và các đặc điểm
giống, giới tính ở gia cầm. Các hormon được sản sinh từ tuyến yên
có tên chung là Gonadotrophic Hormone (GH); các hormon sinh duc
khác gồm Androgen, Oestrogen, Progesteron.
Vai trò của hormon là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến sức sản xuất của gia cầm. Các hormon chính và hoạt động
của nó ở gia cầm được tóm tắt trong bảng 2.3.
Chuỗi các hoạt động của hormon được trình bày trên hình
2.7 và hình 2.8. Cũng như ở gia cầm mái, sự phát triển và hoạt động
sinh sản ở gia cầm trống phụ thuộc vào hoạt động của hormon.
Chuỗi hoạt động của hormon ở gia cầm trống khởi đầu bằng ánh
sáng (hình 2.7). LH kích thích sản sinh ra androgen từ các tế bào kẽ
leydig nằm giữa các ống sinh tinh trong dịch hoàn, quy định tỷ lệ
giữa kích thước dịch hoàn với kích thước mào. Ở chim rất nhạy cảm
với hàm lượng androgen, nó ảnh hưởng ngay đến tính ngon miệng
và khả năng nhận thức ăn của gia cầm. Các hoạt động của ống sinh
tinh được kích thích bởi Polyculo Stymulin Hormon (FSH), đồng
41
thời với Luteino Hormon (LH), thông qua sự kiểm tra và sản sinh
androgen và tham gia trực tiếp vào tổng hợp tinh trùng.
Bảng 2.5. Hoạt động của Hormon trong sinh sản ở gia cầm
Tuyến nội tiết Hormon Chức năng cơ bản tƣơng ứng
Thuỳ trước
Tuyến yên
FSH Kích thích sinh trưởng của tế bào trứng
LH Nguyên nhân của sự thải trứng
Prolactin Chi phối tính ấp bóng, tiết sữa diều
Thuỳ sau Tuyến
yên
Oxytoxin Điều hoà quá trình đẻ
Vosopressin Co thắt mạch máu
Tinh hoàn
Adrogen Điều hoà sự phát triển cơ quan sinh
dục đực, hoạt động sinh dục...
Buồng trứng
Oestrogen Điều hoà sự phát triển buồng trứng,
ống dẫn trứng, hoạt động sinh dục...
Progesteron Cùng với Oestrogen điều hoà quá trình
hình thành trứng
Androgen, nguyên nhân của sự sinh trưởng và độ tươi của
mào, tích, tai và kiểm tra kho dự trữ canxi hàng ngày cung cấp cho
sự tạo tinh trùng.
Sự phát triển và hoạt động của ống dẫn trứng chịu sự kiểm tra
của Oestrogen và Progesteron. Hai hormon này còn ức chế hiệu quả
của Prolactin sinh sản ra từ tuyến yên, điều khiển tính ấp bóng của
gia cầm mái và phân tiết sữa diều ở bồ câu.
42
Tía tử ngoại Mắt Não
Tuyến yên
(Hypophysis)
Thuỳ trước Thuỳ sau
Gonadotrophin Somatrophin Thyrotrophin
Sinh trưởng
FSH LH Thyroid
Tinh hoàn Thyroxin
Tinh trùng
Androgen Kết cấu của mào
Hoạt động tính dục
Sai khác bộ lông
Hình 2.7: Sơ đồ vai trò của hormon, khởi đầu bằng ánh sáng
trong hoạt động sinh dục của gia cầm trống
Đặc điểm
theo giới
tính
43
TK nhận cảm
Tia tử ngoại
Tuyến yên
(Hypophy