Cấu tạo ổ cứng PC

Các bạn đã từng đi mua ổ cứng? Các bạn đã quá quen thuộc với ổ cứng. Vậy nhưng ổ cứng là gì và nó hoạt động thế nào, không hẳn nhiều người đã biết. Chúng ta hãy cùng xem xét vấn đề tưởng như quá quen mà vẫn hãy còn lạ trong bài này. Nếu như CPU là bộ óc của máy tính thì ổ cứng là bộ nhớ lâu dài, nơi lưu trữ cố định các dữ liệu.

doc17 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2406 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấu tạo ổ cứng PC, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cấu tạo ổ cứng Các bạn đã từng đi mua ổ cứng? Các bạn đã quá quen thuộc với ổ cứng. Vậy nhưng ổ cứng là gì và nó hoạt động thế nào, không hẳn nhiều người đã biết. Chúng ta hãy cùng xem xét vấn đề tưởng như quá quen mà vẫn hãy còn lạ trong bài này. Nếu như CPU là bộ óc của máy tính thì ổ cứng là bộ nhớ lâu dài, nơi lưu trữ cố định các dữ liệu. Bánh xe và bánh răng! Nếu không có chúng thì cũng chẳng có ô tô hay ổ cứng. Trước khi bánh răng xuất hiện, người ta sử dụng băng từ để lưu trữ dữ liệu, trên các máy lớn mainframe các băng từ này phải quay tít liên tục để xử lý hết được lượng dữ liệu lưu trữ khổng lồ. Một vấn đề rất khó chịu gặp phải ở băng từ là cơ chế đọc ghi tuần tự. Chẳng hạn bạn muốn có dữ liệu ở phần cuối băng, trong khi bạn đang ở đầu băng, phải làm thế nào đây? Sẽ chẳng có cách nào khác là bạn phải đau khổ ngồi chờ cái quãng thời gian tưởng chừng chẳng bao giờ kết thúc để băng từ… quay từ đầu tới phần dữ liệu bạn muốn. Đến lúc đó nhỡ bạn lại cần dữ liệu ở đầu băng thì sao? Không nói nhưng chắc hẳn ai cũng hình dung được gương mặt nhăn nhó khổ sở của bạn lúc ấy! So với băng từ, đĩa từ nhanh hơn rất nhiều. Cơ chế ghi của đĩa từ cho phép bạn di chuyển đầu đọc (ghi) trực tiếp đến vị trí lưu trữ dữ liệu, cải tiến rõ rệt về thời gian so với việc bạn phải đợi hàng trăm mét băng từ quay tuần tự mãi mới đến phần dữ liệu mong muốn. Định nghĩa ổ cứng Ổ cứng là thiết bị lưu trữ có thể đọc ghi dữ liệu nhanh chóng bằng một tập hợp các phân tử từ hoá trên các đĩa quay. Nếu như CPU là bộ não của máy tính thì ổ cứng là bộ nhớ lâu dài, lưu trữ dữ liệu chương trình và hệ điều hành ngay cả khi máy ở trạng thái nghỉ hoặc tắt. Hầu hết mọi người không thể thấy được phần bên trong của ổ cứng. Bởi nó được phủ bên ngoài bởi một lớp vỏ kim loại (thường là nhôm). Bạn có thể tham khảo cấu tạo của nó tại phần bảng máy PC (mạch in) ở phía cuối. Bảng PC này cung cấp cho chúng ta những các thành phần đầu não của một ổ cứng như bộ điều khiển thiết bị vào ra (I/O controller), firmware, phần mềm nhúng. Các thành phần này có nhiệm vụ cho phần cứng biết phải làm gì và liên lạc như thế nào với máy tính. Trong bảng bạn cũng sẽ thấy một bộ phận khác là bộ đệm của ổ cứng. Bộ đệm này là phần chứa dữ liệu tạm thời, chờ để được ghi hay gửi vào cho bộ nhớ máy tính. Nhưng tốc độ của ổ cứng hiện đại ngày nay chậm hơn giao diện luồng dữ liệu có khả năng điều khiển. Nếu bạn có một ổ cứng rời, bạn sẽ thấy mỗi ổ cứng có từ một đến bốn platter (đĩa), mỗi platter có đường kính gần 9cm. Đường kính của các platter dùng trong thiết bị di động sai khác khoảng 2.5 cm so với các platter trong các thiết bị nghe nhạc, khoảng 4.5 cm với các platter ổ cứng pocket và 6.3 cm với các platter dùng trong notebook. Các platter này cũng được biết đến như là các disk được phủ một lớp vật liệu từ tính nhạy cảm trên cả hai mặt và sắp xếp các milimet phân tách thành một spindle (trục quay). Trong ổ cứng còn có một động cơ thay đổi luân phiên giữa spindle và platter. Các đĩa ổ cứng dùng trong notebook có tốc độ 4200, 5400 hoặc 7200 vòng/phút. Các ổ của máy để bàn hiện nay thường ở mức 7200 hoặc 10.000 vòng/phút. Nói chung tốc độ quay càng cao thì việc đọc dữ liệu càng nhanh. Ghi từ tính Trong các ổ mới hiện nay, người ta thay thế cơ chế ghi từ tính theo chiều dọc bằng một quá trình gọi là perpendicular magnetic recording (ghi từ tính trực giao). Trong kiểu ghi này các phần tử được sắp xếp vuông góc với bề mặt platter. Do đó chúng có thể được gói gần nhau hơn với mật độ lớn, lưu trữ được nhiều dữ liệu hơn. Mật độ bit trong mỗi inch dày hơn có nghĩa là thông lượng của các dòng dữ liệu dưới đầu đọc (ghi) sẽ nhanh hơn. Thông tin được ghi và đọc từ cả hai mặt của đĩa, sử dụng cơ chế mounted on arms, di chuyển cơ học qua lại giữa phần trung tâm và rìa ngoài đĩa. Quá trình di chuyển này được gọi là “seeking” (tìm kiếm) và tốc độ di chuyển qua lại được gọi là “seek time” (thời gian tìm kiếm). Các thông tin đầu đọc (ghi) tìm kiếm nằm trên các track (rãnh), là những đường tròn dữ liệu đồng tâm trên ổ. Các track được chia thành nhiều đơn vị logic gọi là sector (cung từ). Mỗi một sector có địa chỉ riêng (số track cộng với số sector), được dùng để tổ chức và định vị dữ liệu. Nếu ổ đọc (ghi) không đến được track cần tìm, bạn sẽ phải trải qua cái gọi là góc trễ (latency) hay độ trễ quay (rotational delay) hầu hết đều ở mức trung bình. Độ trễ này xuất hiện trước khi một sector quay bên dưới đầu đọc(ghi) và sau khi nó tìm thấy track cần tìm. Mạch ghép nối là gì? Thông thường các máy tính sử dụng kết nối PATA (Parallel Advanced Technology Attachment) hoặc SATA (Serial ATA) trong ổ cứng. Thậm chí bạn có thể sử dụng đồng thời cả hai kết nối này vì hầu hết các bo mạch chủ hiện đại bây giờ đều đưa ra cả hai kiểu giao diện. Chúng ta đang ở thời kỳ chuyển giao giữa PATA và SATA nên sắp xếp như vậy rất hợp lý. Giao diện PATA vẫn còn cần thiết trong các kết nối của ổ quang trong (internal optical drive) với máy tính. Sự song song trong PATA nghĩa là dữ liệu được gửi song song xuống các dòng đa dữ liệu. SATA gửi dữ liệu theo kiểu hàng loạt qua lại giữa các cặp dây xoắn đơn. Ổ PATA (thông thường được gọi là ổ IDE) được phát triển với nhiều tốc độ khác nhau. Mạch ghép nối ATA nguyên bản của những năm 80 hỗ trợ tốc độ truyền tải lớn nhất là 8,3 MB/giây, một tốc độ rất nhanh thời bấy giờ. ATA-2 nâng thông lượng tối đa lên mức 16,6 MB/giây. Lần lượt sau đó là Ultra ATA với các tốc độ 33 MB/giây, 66 MB/giây, 100 MB/giây. Và đến 133 MB/giây của Ultra DMA-33 (Direct Memory Access – Truy cập bộ nhớ trực tiếp) qua Ultra DMA-133 hay Ultra ATA-33 qua Ultra ATA-133. Sau đó đại đa số sử dụng Ultra ATA-66 hoặc hơn. Một ổ ATA điển hình sử dụng cable có độ rộng 2 inch, 40 hoặc 80 (sợi), mặc dù một số cáp 40 chân có dạng vòng. Các ổ của máy để bàn chủ yếu sử dụng bộ kết nối 40 chân, các cáp mở rộng 80 là để phân tách một cách vật lý các sợi dữ liệu nhằm tránh hiện tượng nhiễu xuyên âm ở ATA-100 và ATA-133. Notebook với ổ 2,5 inch sử dụng bộ kết nối 44 chân, ổ 1,8 inch sử dụng bộ kết nối 50 chân. Với tốc độ 133 MB/giây, mạch ghép nối ATA dần không xử lý được các thách thức về mặt kỹ thuật. Mạch SATA ra đời đã giải quyết các vấn đề của ATA. Hiện tại SATA có hai tốc độ chính: 150MBps và 300MBps và hai phiên bản mới 1,5 gigabit/giây (gbps) SATA và 3 gbps SATA . Nhưng thuật toán của các phiên bản mới này khá mờ nhạt: 3gbps được chia thành 8 (tổng số bit trong một byte) trở thành 375 MBps (không phải là 300MBps). Nguyên nhân do tốc độ gbps là tốc độ tín hiệu; 300MBps là tốc độ truyền tải dữ liệu lớn nhất. Và đến nay tốc độ mạch nối vẫn chưa được nhân đôi thêm lần nữa. Tốc độ truyền tải dữ liệu của ổ đơn SATA thường được duy trì ở mức 150MBps. Nếu sử dụng chế độ RAID, cung cấp dữ liệu từ hai hay nhiều ổ vào đường ống dẫn thì sẽ sử dụng được băng thông lớn hơn từ giao diện 300MBps. Ổ SATA có cáp gọn và bộ kết nối nhỏ hơn ổ ATA. Điều đó cho phép có nhiều kết nối hơn trong bảng mạch chính và nhiều dòng khí bên trong hộp máy. SATA còn đơn giản hoá phần cài đặt bằng cách sử dụng cấu trúc mạng point-to-point (điểm tới điểm), cho phép sử dụng một kết nối cho mỗi cổng và cáp. Cấu trúc này cải tiến hơn nhiều so với các jumper và kết nối master/slave của ổ PATA, trong cấu trúc của ổ PATA một cáp được dùng để kết nối 2 ổ. Không giống như PATA, SATA phù hợp với các ổ ngoài gắn trực tiếp, cho phép sử dụng cáp dài 2m trong một giao diện, góp phần cải tiến tốc độ hơn nhanh đáng kể so với USB 2.0 và FireWire. External SATA có bộ kết nối hơi khác hơn một chút, tốc độ được cải thiện, được thiết kế để khoá tại một chỗ, nhiều lỗi được sửa chữa và tính tương thích hoàn chỉnh. Một giao diện kết nối khác khá phổ biến trước đây, nhưng hiện không còn được nói tới nhiều là SCSI (for Small Computer System Interface). Tại thời kỳ phát triển, SCSI là phương tiện lưu trữ chương trình thực thi ổ cứng để bàn khá nhanh. Nhưng SATA đã dần thay thế SCSI. Ổ cứng trong tương lai Có thể nói sau này tất cả các ổ cứng để bàn và di động sẽ dùng mạch giao tiếp SATA với cơ chế ghi từ tính trực giao. Bất kỳ máy PC mới nào cũng sẽ có ít nhất một mạch SATA; Bạn có thể nâng cấp ổ của mình thành ổ trực giao khi giá thành hạ. Dung lượng ổ sẽ tiếp tục lớn lên theo cấp hàm mũ trong khi tốc độ thực thi chỉ phát triển ở mức trung bình. Ghost đĩa từ máy tính này sang máy khác Ghost, còn gọi là công cụ “clone”, hay sao lưu đĩa. Chương trình này là một phần mềm có tính phí của hãng Symantec, bạn có thể liên hệ với các cửa hàng phần mềm để mua. Bạn cũng có thể dùng bản rút gọn có trong bộ công cụ khởi động Hiren. Cần chuẩn bị, một đĩa CD khởi động Hiren, version từ 7.0 trở lên, phiên bản mới nhất hiện nay là 8.2. Trong đĩa CD này đã có sẵn công cụ Norton Ghost. Máy tính 1 (đã cài đầy đủ chương trình) phải trang bị ổ CD ROM. Có hai cách để thực hiện công việc Ghost từ máy một sang máy hai. Cách 1: (Nếu bạn có kiến thức về tháo lắp phần cứng máy tính, và máy của bạn không phải là máy bộ đang trong thời gian bảo hành) Bạn tuần tự làm theo các bước sau: B1: Tháo ổ cứng của máy 2, gắn vào máy tính 1 theo chế độ slave (nếu máy bạn dùng đĩa cứng theo chuẩn IDE ATA). Còn nếu máy bạn dùng SATA thì gắn vào một potrt SATA thứ hai. B2: Sau khi đã gắn đĩa cứng vào, bạn vào BIOS và kiểm tra việc, máy tính đã nhận biết (detect) được hai ổ đĩa cứng chưa. Nếu chưa được thì kiểm tra và thao tác cho đến khi nào máy tính một của bạn nhận biết được hai ổ cứng. B3: có 3 trường hợp 1. Nếu hai ổ cứng hoàn toàn giống nhau về kích thước, thì bạn có thể bắt đầu Ghost đĩa ngay. Thao tác như sau: Khởi động máy bằng đĩa CDROM Hiren đã chuẩn bị. Bạn sẽ nhận được một danh sách liệt kê rất nhiều công cụ có trong đĩa CD này. Hãy nhấn số của dòng công cụ “Disk Clone Tools”, bạn sẽ thấy một danh sách rất nhiều công cụ để sao y đĩa, hãy chọn công cụ Norton Ghost 8.00. Chọn tuần tự Local -> Disk -> To Disk. Khi máy tính hỏi bạn về Source Disk, hãy chọn ổ đĩa đã có đầy đủ thông tin. Đĩa đích sẽ là đĩa cứng mà bạn mới gắn vào. Xin lưu ý, thông tin trên đĩa đích sẽ bị ghi đè nếu bạn dùng chế độ Disk to Disk. Nếu bạn Ghost các đĩa cứng cài hệ điều hành thuộc họ NT (Windows 2000/XP/2003), bạn nhớ chấp nhận để Ghost luôn cả tập tin Pagefile.sys. Chức năng này chỉ có với các phiên bản Ghost từ 8.00 trở lên. Windows 2003 cần phiên bản Ghost 8.02. 2. Nếu hai ổ cứng của bạn không giống nhau hoặc giống nhau, nhưng bạn muốn chia cấu trúc phân vùng khác. Trước hết, hãy dùng PartionMagic để phân vùng lại đĩa cứng máy 2 như ý muốn của bạn. Công cụ PartionMagic có thể tìm thấy ngay trên đĩa CD Hiren, tại mục Disk Manager Tools. Bạn tiến hành Ghost từ Partion -> Partion. Chương trình yêu cầu bạn lựa chọn đĩa nguồn (Source Disk), tới phân vùng chứa thông tin (Source Partion), rồi tới đĩa đích (Destination Disk), nếu có 2 đĩa cứng vật lý và phân vùng chứa thông tin chép đến. Nếu không, bạn cũng có thể chép một phân vùng thành một tập tin Images, bằng cách dùng chức năng Pation -> To Image. Tập tin này có đuôi là .gho. Xin nhớ là phải xác nhận yêu cầu copy luôn cả tập tin Pagefile.sys vào trong tập tin hình ảnh. Sau đó, cần chép tới phân vùng nào thì dùng chức năng Partion -> From Images… để bung từ tập tin .gho mà bạn đã tạo thành một Partion có thông tin gần như nguyên vẹn. Lưu ý: Lượng thông tin trong phân vùng nguồn không được lớn hơn dung lượng chứa của phân vùng đích. Tốt hơn, hai phân vùng nên có kích thước đều nhau hoặc phân vùng nguồn có kích thước nhỏ hơn. Cách 2: ( Nếu bạn không muốn tháo lắp máy tính). Hãy đọc kỹ bước ba, hướng dẫn cách Ghost một phân vùng đĩa thành một tập tin Images. Tìm cách chép tập tin phân vùng đĩa .gho đó từ máy 1 vào máy 2. Sau đó, khởi động máy 2 với đĩa CD Hiren và làm thao tác ngược lại, ghost từ một tập tin Images thành một phân vùng đĩa. Tập tin .gho này thường có kích thước khá lớn, thường là lớn hơn 1GB. Bạn có thể ghi ra CD hoặc hay hơn là DVD. Nếu tốt hơn nữa là có một thiết bị tháo lắp như ổ cứng rời… Để cho an toàn, khi tháo đĩa cứng 2 trở về máy tính 2, bạn hãy khởi động Windows ở chế độ SafeMode, sử dụng chức năng Scan for Hardware Change trong Device Manager trước khi khởi động lại ở chế độ bình thường. Có thể, Windows sẽ tái cài đặt lại một số các driver phần cứng cho nên bạn hãy cẩn thận chuẩn bị đĩa CD cài đặt Windows. Thao tác này dùng để tái thiết lập lại số ID (định danh) của Windows XP cho máy tính mới (máy tính 2) của bạn. Xin nhớ, luôn phải sao lưu thông tin dự phòng và cẩn thận hết sức trong việc phân biệt đĩa cứng, đặc biệt là trường hợp hai đĩa cứng giống nhau. Chúc bạn thành công! Khôi phục bad sector trên ổ cứng, Cách làm và down tool Khôi phục bad sector trên ổ cứng Ổ cứng có tuổi thọ sử dụng trên hai năm thì thường bị lỗi, một số sector sẽ không còn sử dụng được nữa mà người ta thường gọi là Bad sector. Nguyên nhân phần lớn có thể là do phần cơ của ổ cứng hoạt động không ổn định thường gọi là hư hỏng vật lý. Đối với nguyên nhân này thì khả năng khôi phục lại là rất thấp và không phải người dùng bình thường có thể làm được mà đòi hỏi đến các kỹ thuật viên chuyên nghiệp. Bên cạnh đó cũng phải kể đến khả năng hư hỏng do phần mềm gây ra như: do virus phá hoại, cúp điện khi đang làm việc, cài đặt và gỡ bỏ các phần mềm không đúng cách... cũng sẽ được hệ thống liệt kê vào danh sách Bad Sector mà thực ra nó vẫn còn dùng được. Để lấy lại những Bad sector đấy thì không phần mềm nào có thể thực hiện tốt hơn chương trình HDD Regenerator của Dposoft. Như chúng ta đã biết, ổ cứng bị lỗi Bad Sector nói chung thì khi bảo hành các nhân viên kỹ thuật sẽ tiến hành format cấp thấp để đánh dấu và lọai bỏ các Bad Sector nói chung. Quá trình này sẽ làm mất dữ liệu có trên ổ cứng và có thể xóa nhầm các Sector do hư hỏng phần mềm gây ra. Nhưng đối với HDD Regenerator thì những hạn chế trên sẽ được khắc phục. Cách sử dụng: - Chương trình không có khả năng sữa chữa Bad Sector trực tiếp trên hệ điều hành Windows mà chỉ cho phép sử dụng trong môi trường DOS mà thôi. Vì thế HDD Regenerator sẽ tạo một đĩa mềm chứa chương trình sữa chữa có khả năng Boot. Quá trình này thực hiện rất đơn giản. Sau khi cho đĩa mềm vào ổ, hãy khởi động chương trình. Nhấn vào menu Regeneration và chọn mục Create Bootable Diskette. HDD Regenerator sẽ tiến hành format và chép chương trình vào đĩa mềm đó. - Khởi động lại máy tính và tiến hành boot bằng đĩa mềm. Lưu ý rằng chương trình chỉ nhận dạng ổ cứng chứ không thể nhận ra từng phân vùng trên ổ cứng. Tiếp theo bạn nhấn vào nút Fix để HDD Regenerator tiến hành kiểm tra, sữa chữa và khôi phục lại Bad Sector không phải là lỗi vật lý gây ra. Số lượng Bad Sector khôi phục được sẽ được hiển thị rõ ràng trong giao diện của chương trình. - Đối với ổ cứng Maxtor với dung lượng 40 GB mất khoảng 5 tiếng để có thể hoàn tất quá trình sữa chữa, tốt nhất bạn nên chạy chương trình này vào ban đêm. Chương trình được cung cấp tại địa chỉ: với dung lượng khoảng 1,6 MB, tương thích với mọi hệ điều hành Windows. Download>>> Dùng một ổ cứng cho nhiều máy tính, Dùng Tạo Mạng Boot Rom (dùng cho phòng game and net) Kĩ thuật này có thể áp dụng cho những phòng máy tính nhỏ để tiết kiệm chi phí đầu tư. Ngoài ra, người quản lí sẽ dễ dàng theo dõi hệ thống, phát hiện và sửa chữa lỗi. Bạn sẽ bắt đầu bằng việc cài đặt mạng BootRom, thiết lập những ổ cứng ảo. Chuẩn bị Mô hình mạng BootRom, mỗi máy con một ổ ảo Bài này sẽ hướng dẫn cài đặt hệ thống BootRom trên hệ điều hành Windows XP, dùng phần mềm BXP phiên bản 3.1của hãng Venturcom. BXP là phần mềm hỗ trợ với các thành phần: BXP server cài đặt trên máy chủ và bản BXP client dùng trên các máy con. Chương trình có nhiệm vụ: mã hóa Windows XP đang cài đặt trên đĩa cứng của một máy con thành tập tin ảnh, sau đó chép tập tin này lên đĩa cứng của máy chủ và giúp máy khách có thể truy xuất nó như là một ổ đĩa ảo có chứa hệ điều hành này. Chú ý: BootRom phù hợp với mô hình mạng LAN nhỏ và chạy các chương trình không quá nặng. Khi mạng có nhiều máy con phục vụ hoạt động tải phim ảnh, chơi game 3D... thì dễ bị treo toàn bộ hệ thống. Nếu muốn dùng, bạn cần đầu tư mua máy chủ có cấu hình cao. Đối với máy chủ (server) - Hệ điều hành có thể dùng: Windows XP, Windows 2000 Professional, Windows 2000 Server, Windows 2000 Advanced server hoặc Windows Server 2003... - Ổ cứng: Các máy con dùng chung ổ cứng (Shared Image) thì dung lượng không cần nhiều nhưng nếu mỗi máy con muốn một phần "đất" riêng trên đó (dạng Private Image) thì bạn có thể tính toán sao cho hợp lí. Ví dụ: phòng 10 máy con, mỗi máy cần 5 GB thì ổ cứng phải trên 50 GB. Bạn nên chọn đĩa cứng có tốc độ cao (7200 vòng/phút chẳng hạn) để máy con truy cập nhanh. - Mô hình: Windows 2000 Server, đã cấu hình domain, DHCP, giao thức TCP/IP. Ổ cứng định dạng NTFS. Tạo sẵn 10 tài khoản cho các máy con từ user1 đến user10 thông nhau trong mạng LAN. Đối với máy con (client) - Hệ điều hành có thể dùng: Windows XP Professional (hoặc Windows 2000 Professional). - Card mạng PXE (phiên bản 99j trở lên), thuộc một trong 3 loại 3com905C, Intel Pro/100, RTL8139. - Một ổ cứng tham khảo để cài hệ điều hành, các ứng dụng... cho máy con (ổ này sau sẽ không dùng đến do dữ liệu của nó được sao vào ổ đĩa ảo). Dung lượng các chương trình cài đặt ở đây là yếu tố tham khảo để bạn khai báo dung lượng ổ đĩa ảo sau này. Cài đặt BXP ở máy chủ Chú ý: trước khi cài BXP 3.1 nếu trong máy chủ của bạn có một phiên bản nào trước của BXP 3.1 như 3Com VLD, BootNic, BXP2.0 thì phải gỡ chúng và các thư mục liên quan khỏi hệ thống rồi mới cài. - Nhấn đúp chuột vào tập tin chạy. - Hộp thoại Setup type xuất hiện. Chọn Full Server, bấm Next. - Bỏ đánh dấu Tellurian DHCP Server trong hộp thoại Select Components (vì hệ thống đã sử dụng DHCP - dịch vụ cấp phát địa chỉ IP động của Windows Server 2003). - Hệ điều hành thông báo phát hiện thêm phần cứng mới (ổ đĩa ảo của BXP). Bấm Next để phần mềm xác nhận cài đặt. Bấm Continue anyway và chờ đến khi quá trình cài BXP ở máy chủ hoàn tất. Cấu hình dịch vụ BXP trên máy chủ Bạn phải cài đặt cho các dịch vụ sau: - 3Com PXE Service: dùng trong trường hợp các máy khách nhận địa chỉ IP tự động từ DHCP. - BXP TFTP Service: các máy khách dùng để nạp tập tin ảnh khởi động (bootstrap file). - BXP Login Service: chấp nhận các máy khách và cung cấp thông tin về ổ cứng ảo mà nó được gán. - BXP IO Service: truy cập đến tập tin ổ đĩa ảo để xử lí các yêu cầu truy xuất mà máy khách gửi tới. 3Com PXE Service - Vào menu Start > Control Panel, nhấn đúp chuột vào biểu tượng 3COM PXE. Nếu có thông báo dịch vụ này chưa khởi động, nhấn Yes để bỏ qua. - Ở thẻ Options, bạn kiểm tra đường dẫn C:\Program Files\Venturcom\BXP\TFTPBOOT. - Nếu DHCP đang hoạt động ở máy chủ thì mục Proxy DHCP sẽ bị mờ (chỉ chọn mục này khi DHCP chạy ở một máy chủ khác). - Nhấn vào thẻ Network Adapters. Đánh dấu ở địa chỉ IP của card mạng dùng để chạy dịch vụ này. - Nhấn OK để thoát hộp thoại. Venturcom TFTP Service Trong Control Panel, nhấn đúp vào biểu tượng Venturcom TFTP Service. - Kiểm tra đường dẫn ở mục Transmit (GET) directory (chỉ đến file Vldrmi13.bin) phải đúng là C:\Program Files\Venturcom\BXP\Tfptboot. - Kiểm tra mục Allow Transmit được chọn. - Nhấn vào thẻ TFTP Network và chọn vào phần địa chỉ IP của card mạng để chạy dịch vụ này. Chú ý: PXE và TFTP Servers phải được gắn cùng một card mạng. - Nhấn OK để lưu và thoát khỏi hộp thoại. BXP IO Service - Chọn một ổ cứng (D hay E) trên máy chủ (phải được định dạng bằng NTFS) để tạo một thư mục để lưu trữ các file hình ảnh của máy khách. - Vào menu Start > Programs > Venturcom BXP, chọn BXP IO Service Preferences. Một hộp thoại xuất hiện. - Nhấn Browse, chọn thư mục lưu trữ nói trên. - Tại IP Settings, chọn card mạng được dùng cho dịch vụ này bằng cách chọn địa chỉ IP tương ứng. - Mục Port phải khai báo đúng 6911. - Nhấn OK để lưu và thoát khỏi hộp thoại. BXP Login Service - Start > Programs > Venturcom BXP, chọn BXP Login Service Preferences. Một hộp thoại xuất hiện. - Kiểm tra đường dẫn ở mục
Tài liệu liên quan