Cấu trúc địa hình lòng sông - Nguyễn Thanh Sơn

Phân chia hình dạng lòng sông và hình dạng lòng dẫn như là các mắt xích của địa hình lòng sông, xác định mối quan hệ hình thái và động lực của các hìnhdạng này với các đặc trưng thuỷ lực dòng chảy lòng sông lànhiệm vụ truyền thống của phân tích lòng dẫn. Công cụ làmviệc của nghiên cứu là phân tích cấu trúc bao gồm như phân tích – chia đối tượng ra các phần nguyêncũng như tổng hợp – xác định hệthống quan hệ giữa các thành tố. Độ tin cậy của các dự báo sựchuyển dịch lòng dẫn phụ thuộc vào mức độ nền tảng lý thuyếtcủa nó.

pdf86 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cấu trúc địa hình lòng sông - Nguyễn Thanh Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.IU. Sidortrucs Cấu trúc địa hình lòng sông Biên dịch: Nguyễn Thanh Sơn Hà Nội - 2005 САНКТ - ПЕТЕРБУРГ - ГИДРОМЕТЕОИЗДАТ 1992 Mục lục Mở đầu 5 Ch−ơng 1. Phân tích cấu trúc là thành phần tiếp cận hệ thống đến lý thuyết quá trình lòng sông 10 1.1. Các nguyên tố 11 1.2. Cấu trúc 18 1.3. Tổ chức 24 Ch−ơng 2. Cơ chế thành tạo các cấu trúc bậc phức tạp của địa hình lòng sông 29 2.1. Cấu trúc dòng chảy rối 29 2.2. Phát triển các xáo trộn nhỏ trong dòng chảy lòng sông 39 2.3. Cấu trúc địa hình lòng dẫn sông ngòi 52 Ch−ơng 3. Hình thái học, động lực học và ảnh h−ởng qua lại các nguyên tố cấu trúc của địa hình lòng sông 58 3.1. Gợn sóng (sóng cát nhỏ nhất) 59 3.2. Sóng cát nhỏ và trung bình 70 3.3. Các sóng cát lớn 92 3.4. Các sóng cát lớn nhất 99 3.5. Phân loại cấu trúc địa hình lòng dẫn sông ngòi 102 Ch−ơng 4. Hình dạng lòng sông và các nhân tố xác định nó 107 4.1. Các lòng dẫn thẳng 108 4.2. Các lòng sông uốn khúc 110 4.3. Các sông phân nhánh 120 4.4. Các nhân tố xác định hình dạng lòng dẫn 123 Ch−ơng 5. Các nguyên lý điều tiết tối −u cấu trúc địa hình lòng sông nhằm khai thác tự nhiên hợp lý 135 5.1. Làm yếu quá trình lòng sông 136 5.2. Tăng c−ờng quá trình lòng sông 139 5.3 Tạo lập các dòng sông nhân tạo 142 5.4. Các vấn đề điều tiết lòng sông ở hạ l−u sông Terek bằng ph−ơng pháp tăng c−ờng quá trình lòng sông 144 Kết luận 150 Phụ lục 153 Tài liệu tham khảo 154 3 4 Mở đầu Phân chia hình dạng lòng sông và hình dạng lòng dẫn nh− là các mắt xích của địa hình lòng sông, xác định mối quan hệ hình thái và động lực của các hình dạng này với các đặc tr−ng thuỷ lực dòng chảy lòng sông là nhiệm vụ truyền thống của phân tích lòng dẫn. Công cụ làm việc của nghiên cứu là phân tích cấu trúc bao gồm nh− phân tích – chia đối t−ợng ra các phần nguyên cũng nh− tổng hợp – xác định hệ thống quan hệ giữa các thành tố. Độ tin cậy của các dự báo sự chuyển dịch lòng dẫn phụ thuộc vào mức độ nền tảng lý thuyết của nó. Các luận cứ lý thuyết nền móng để phân tích cấu trúc địa hình lòng sông là các luận cứ sau đây: 1. Nguyên tắc tác động qua lại giữa dòng chảy và lòng sông, đ−ợc hình thành bởi M. A. Velicanov [12]. Nguyên tắc này xuất hiện với t− t−ởng áp dụng thực tiễn các công trình hiệu chỉnh (h−ớng dòng, làm hẹp dòng v.v..) trên các sông Tây Âu vào các thế kỷ XVIII – XIX và n−ớc Nga vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong soạn thảo của ông có đóng góp to lớn của N. S. Leliavski [15]. M. A. Velicanov [12] đã xác định nguyên lý tác động qua lại của dòng chảy và lòng sông : " do kết quả tác động t−ơng hỗ dần dần của các dòng riêng rẽ lên các phần riêng biệt của địa hình lòng sông lòng dẫn của sông tiến dần đến các nét ngày càng mềm mại hơn, và nó lại làm cho các dòng dẫn trơn tru hơn cho đến khi nào mà cuối cùng lòng sông và dòng chảy trở nên một tổ hợp liên kết hữu cơ duy nhất, khi mà lòng sông nhận theo dạng dòng chảy và dòng chảy phản ánh dạng lòng sông". N. I Macaveev [52] đã mở rộng nguyên lý này: " Trong dạng tổng quát nhất quá trình tạo lòng có thể xác định nh− là quá trình "sao chụp " bề mặt của môi tr−ờng rắn (tức là đất đá cấu tạo đáy) bởi các đặc thù chuyển động của n−ớc và phù sa nó mang theo". Dùng ví dụ sự sao chụp nh− thế N. I. Macaveev dẫn ra sự thay đổi địa hình bề mặt phân cách hai môi tr−ờng (sóng Genmgolxa) ý t−ởng gần với t− t−ởng của N. I. Macaveev nằm trong nền tảng mô tả cơ chế tác động qua lại của dòng chảy và lòng sông nh− là sự phát triển các khuâý động nhỏ đầu tiên của các đặc tr−ng thuỷ lực và hình thái.Một chu trình nguyên vẹn các công trình đã mở ra qua các bài báo của Andersel [105], Li [129], Kenedi [117], N. B. Kereselidze [35]taoj nên một bức tranh chân thật của giai đoạn tiến hoá đầu tiên của hình dạng lòng sông và lòng dẫn các dạng hình thái khác nhau, cho phép tính toán các kích th−ớc đặc tr−ng hình dạng lòng sông. Phân tích các công trình này K. V. Krisanhin [21] l−u ý rằng ph−ơng pháp khuấy động nhỏ đã đặt lời giải các vấn đề về nguồn gốc địa hình dạng sóng của đáy chuyển động một cơ sở khoa học. 2. Nguyên lý phân đoạn quá trình lòng sông hình thành bởi N. E. Konđrachev [42]. Nguyên lý này dựa trên thực tiễn công trình khắp nơi điều tiết động lực hạn chế cụ thể theo không gian và theo thời gian của dạng lòng sông. Ví dụ khảo sát của N. S. Leliavski [15] sự dịch chuyển sóng cát trên sông Vonga là một trong những mẫu thực hiện nguyên lý phân đoạn khi phân tích địa hình lòng sông. Về lĩnh vực nghiên cứu dòng chảy lòng sông nguyên lý phân đoạn dựa trên khái niệm về cấu trúc rối. áp dụng đến lòng dẫn sông ngòi M. A. Velicanov [12] đã phát triển chúng, ông đã chia các xoáy rối phân đoạn với kích th−ớc cỡ độ sâu dòng chảy. Tiếp theo đã làm rõ cấu trúc dòng chảy lòng sông với các kích th−ớc đặc tr−ng cỡ chiều rộng dòng chảy và hơn thế, bản chất vật lý của nó đ−ợc lặp lại bởi các nhà 5 6 nghiên cứu khác không chỉ một lần. Hiện nay nguyên lý phân đoạn đã chiếm lĩnh sự thống trị trong các nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng trong n−ớc nh− đã ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội thuỷ văn toàn liên bang lần thứ V [72]. 3. Nguyên lý liên tục của quá trình lòng sông. Chấp nhận tính liên tục ( mức độ vĩ mô) của dòng chảy lòng sông và tr−ờng cao độ đáy lòng dẫn sông ngòi tính liên kết lẫn nhau và chuyển hoá cho nhau các dạng lòng sông. Nằm trong cơ sở việc thành lập ph−ơng trình chuyển động và liên tục của dòng chảy, cán cân vật chất rắn, tính đến sự thay đổi không ngừng của các nhân tố tạo lòng chủ yếu. Nó tìm thấy sự phản ánh của mình trong việc áp dụng ph−ơng pháp phân tích t−ơng quan và phổ khi nghiên cứu cấu trúc dòng chảy và địa hình lòng sông. Tuy nhiên kết quả ứng dụng chúng th−ờng lặp lại ngoài quan điểm của khái niệm phân đoạn về quá trình lòng sông. 4. Nguyên lý tổ chức địa hình lòng sông. Địa hình lòng dẫn sông ngòi thể hiện một tổ hợp t−ơng đối ổn định cũng nh− hình dạng lòng dẫn th−ờng xuyên thay đổi. Tự lòng dẫn cũng có nhứng hình dạng rất phức tạp. Tổ hợp này có tổ chức bên trong hay không, tổ chức đó nh− thế nào và nguyên nhân nào làm xuất hiện nó – đó là những vấn đề nguyên lý của lý thuyết quá trình lòng dẫn. Các đối t−ợng thực của phân tích lòng dẫn là các dạng lòng sông riêng biệt, tổ hợp của chúng hoặc các đoạn sông trong tổng thể. Chúng không tồn tại ngoài mối quan hệ với các hình dạng lòng dẫn khác, cho nên để nghiên cứu chúng cần soạn ra các nguyên tắc tính toán hình dạng lòng dẫn, các thành tố riêng, và nghiên cứu chúng trong mối t−ơng tác với các nhân tố lòng dẫn khác, tức là tính đến cấu trúc của đối t−ợng. Cho nên từ chính lúc bắt đầu xuất hiện phân loại hình thái các dạng lòng dẫn nó là thành tố của phân loại cấu trúc. Trình bày tuần tự đầu tiên các khái niệm về địa hình lòng sông nh− là tổ hợp t−ơng hỗ các sóng đáy, sóng cát, bãi vắt, mũi nhô và bãi cạn, vực sông và lòng thẳng với việc phân tích ảnh h−ởng của hình dạng lòng dẫn lên chế độ bãi vắt và tác động của động lực hình thái của sóng cát và bãi cạn lên hình dạng của lòng dẫn đã đ−ợc N. N. Zjukovski [15] công bố. K. I. Rosinski và I. A. Kuzmin [77] đã phân chia: 1) sóng cát trong lòng dẫn – sóng, gờ, bãi vắt; 2) hình dạng lòng dẫn: thẳng ( ít uốn khúc), cong và lạc h−ớng. N. I. Macaveev [52] mặt cắt dọc của sông, bãi bồi, vực sông, bãi vắt. Đột biến về chất trong nghiên cứu cấu trúc địa hình lòng sông xảy ra với sự xuất hiện các công trình của N. E. Konđrachev [42, 43, 78]. Trong chúng đã hình thành các luận điểm về tổ chức địa hình lòng sông. Đã phân ra các mức độ chính của tổ chức. N. E. Konđrachev nêu ra ba mức tổ chức: hình dạng nhỏ, hình dạng trung gian và hình dạng lớn. Tiếp theo, trong các công trình của I. V. Popov [67], B. Ph. Snhisenco [92], V. V> Romanhisin [75], N. S. Znamenskaia [27], A. Iu. Siđortruc [88] phân loại này đ−ợc bổ sung và làm chính xác Hiện nay các tác giả khác nhau đã phân ra các mức cấu trúc nh− sau: 1) phần tử phù sa; 2) hình dạng cực nhỏ; 3) hình dạng nhỏ; 4) hình dạng trung gian; 5) hình dạng lớn, 6) hình dạng cực lớn; 7) đoạn sông đồng nhất; 8) toàn bộ sông ngòi; 9) l−u vực tụ thuỷ. Đối với các mức cấu trúc chính V. S. Borovcov [11] đã xác định các hệ thức quy mô không gian và thời gian. Trong đa số các nghiên cứu quá trình lòng sông, hình thái và động lực các dạng lòng dẫn, các soạn thảo dự báo sự phát triển của chúng và các h−ớng dẫn thực tế về sử dụng lòng dẫn sông ngòi của nền kinh tế quốc dân cần tính đến tổ chức địa hình lòng sông. 5. Nguyên lý xác định địa lý hình thái học lòng dẫn. Nó đ−ợc dựa trên các công trình của N. I. Macaveev [57] và R. S. Tralov [95, 101] và phản ánh sự thay đổi có quy luật theo thời 7 8 gian và không gian các nhân tố chủ yếu của quá trình lòng sông. Điều này cho phép nói về tính địa đới của các quá trình lòng sông, các đặc điểm biểu hiện phân vùng của chúng. `đồng thời trên mức độ địa ph−ơng quan sát thấy tính biến động lớn về hình thái cũng nh− động lực các dạng lòng sông riêng biệt cho nên cần tính đến ảnh h−ởng lên quá trình lòng sông mọi tổ hợp nhân tố tự nhiên, thậm chí từ cái nhìn đầu tiên, ít tồn tại.Tính xác định địa lý hình thái lòng dẫn sông ngòi, sự phụ thuộc của địa hình lòng dẫn sông ngòi vào cảnh quan l−u vực và đồng thời sự hình thành các cảnh quan đặc tr−ng và các hệ sinh thái trong vùng ảnh h−ởng của hệ thống dòng chảy – lòng dẫn tạo nên cơ sở để nghiên cứu sinh thái quá trình lòng dẫn và sự thay đổi công nghệ sinh học của chúng. Hiện nay trong lý thuyết quá trình lòng dẫn theo đuổi hai h−ớng chủ yếu : thuỷ động lực – thuỷ lực và thuỷ địa mạo – địa lý. Trong khuôn khổ nhóm thứ nhất chủ yếu xem xét động lực học dòng sông, sự vận động của phù sa, còn hình thái học lòng sông chỉ xét đến mức độ sóng cát. Trong h−ớng thuỷ địa mạo và địa lý ít chú ý hơn đến cấu trúc dòng chảy, nh−ng địa hình lòng dẫn sông ngòi đ−ợc xét tới mọi khía cạnh của nó, tính cả tính đa nhân tố của quá trình lòng sông [7, 54], bao gồm các phần lớn ch−a hẳn đã gắn kết với nhau: động lực học dòng chảy từ một phía và hình thái học và động lực học lòng sông – phía thứ hai. Phân tích cấu trúc hệ thống dòng chảy – lòng sông h−ớng đến việc gắn kết các h−ớng cơ bản ấy bởi vì nhiệm vụ chủ yếu của nó là xác định mối quan hệ giữa các thành tố phân tích khách quan của hệ thống. Mặc dù sự chú ý lớn nhất trong các nghiên cứu hiện nay dành cho cấu trúc địa hình lòng sông nh−ng cũng thử tổng hợp các kết quả nghiên cứu thuỷ lực và địa lý của quá trình lòng sông. Ch−ơng1 Phân tích cấu trúc là thành phần tiếp cận hệ thống đến lý thuyết quá trình lòng sông Hệ thống dòng chảy – lòng sông thuộc loại hệ thống động lực tự phát triển. Nó bao gồm hai bộ phận chính: chất lỏng chuyển động và lòng sông bị xói lở. Tính chất các bộ phận là khác nhau rõ ràng – chất lỏng chuyển động tuân theo các quy luật của cơ học chất lỏng, đất đá tạo đáy tuân theo các quy luật cơ học đất. Giữa dòng chảy và lòng bị xói lở diễn ra sự tác động qua lại, đó chính là bản chất của quá trình lòng sông [12]. Do kết quả tác động t−ơng hỗ giữa dòng chảy và lòng sông trong hệ thống sinh ra một tính chất mới – tính cấu trúc: trong dòng chảy tạo thành rối lòng sông qui mô lớn, còn trong lòng dẫn – địa hình lòng sông. Ngoài hệ thống dòng chảy – lòng sông không thể tồn tại ở trạng thái tích cực cả rối lòng sông qui mô lớn lẫn địa hình lòng sông. Nh− vậy hệ thống khác với phép cộng đơn giản các thành phần của nó. Bản thân địa hình lòng sông không phải là một hệ thống tự phát triển. Cho nên công việc thực tế mô tả các quá trình nảy sinh, phát triển và t−ơng tác của các dạng địa hình lòng sông là không thể nếu không tính đến các chức năng toàn bộ hệ thống và đòi hỏi việc thực hiện tiệm cận hệ thống, tức là nghiên cứu "tổ chức các thành phần tác động 9 10 gian và không gian các nhân tố chủ yếu của quá trình lòng sông. Điều này cho phép nói về tính địa đới của các quá trình lòng sông, các đặc điểm biểu hiện phân vùng của chúng. `đồng thời trên mức độ địa ph−ơng quan sát thấy tính biến động lớn về hình thái cũng nh− động lực các dạng lòng sông riêng biệt cho nên cần tính đến ảnh h−ởng lên quá trình lòng sông mọi tổ hợp nhân tố tự nhiên, thậm chí từ cái nhìn đầu tiên, ít tồn tại.Tính xác định địa lý hình thái lòng dẫn sông ngòi, sự phụ thuộc của địa hình lòng dẫn sông ngòi vào cảnh quan l−u vực và đồng thời sự hình thành các cảnh quan đặc tr−ng và các hệ sinh thái trong vùng ảnh h−ởng của hệ thống dòng chảy – lòng dẫn tạo nên cơ sở để nghiên cứu sinh thái quá trình lòng dẫn và sự thay đổi công nghệ sinh học của chúng. Hiện nay trong lý thuyết quá trình lòng dẫn theo đuổi hai h−ớng chủ yếu : thuỷ động lực – thuỷ lực và thuỷ địa mạo – địa lý. Trong khuôn khổ nhóm thứ nhất chủ yếu xem xét động lực học dòng sông, sự vận động của phù sa, còn hình thái học lòng sông chỉ xét đến mức độ sóng cát. Trong h−ớng thuỷ địa mạo và địa lý ít chú ý hơn đến cấu trúc dòng chảy, nh−ng địa hình lòng dẫn sông ngòi đ−ợc xét tới mọi khía cạnh của nó, tính cả tính đa nhân tố của quá trình lòng sông [7, 54], bao gồm các phần lớn ch−a hẳn đã gắn kết với nhau: động lực học dòng chảy từ một phía và hình thái học và động lực học lòng sông – phía thứ hai. Phân tích cấu trúc hệ thống dòng chảy – lòng sông h−ớng đến việc gắn kết các h−ớng cơ bản ấy bởi vì nhiệm vụ chủ yếu của nó là xác định mối quan hệ giữa các thành tố phân tích khách quan của hệ thống. Mặc dù sự chú ý lớn nhất trong các nghiên cứu hiện nay dành cho cấu trúc địa hình lòng sông nh−ng cũng thử tổng hợp các kết quả nghiên cứu thuỷ lực và địa lý của quá trình lòng sông. Ch−ơng1 Phân tích cấu trúc là thành phần tiếp cận hệ thống đến lý thuyết quá trình lòng sông Hệ thống dòng chảy – lòng sông thuộc loại hệ thống động lực tự phát triển. Nó bao gồm hai bộ phận chính: chất lỏng chuyển động và lòng sông bị xói lở. Tính chất các bộ phận là khác nhau rõ ràng – chất lỏng chuyển động tuân theo các quy luật của cơ học chất lỏng, đất đá tạo đáy tuân theo các quy luật cơ học đất. Giữa dòng chảy và lòng bị xói lở diễn ra sự tác động qua lại, đó chính là bản chất của quá trình lòng sông [12]. Do kết quả tác động t−ơng hỗ giữa dòng chảy và lòng sông trong hệ thống sinh ra một tính chất mới – tính cấu trúc: trong dòng chảy tạo thành rối lòng sông qui mô lớn, còn trong lòng dẫn – địa hình lòng sông. Ngoài hệ thống dòng chảy – lòng sông không thể tồn tại ở trạng thái tích cực cả rối lòng sông qui mô lớn lẫn địa hình lòng sông. Nh− vậy hệ thống khác với phép cộng đơn giản các thành phần của nó. Bản thân địa hình lòng sông không phải là một hệ thống tự phát triển. Cho nên công việc thực tế mô tả các quá trình nảy sinh, phát triển và t−ơng tác của các dạng địa hình lòng sông là không thể nếu không tính đến các chức năng toàn bộ hệ thống và đòi hỏi việc thực hiện tiệm cận hệ thống, tức là nghiên cứu "tổ chức các thành phần tác động 9 10 qua lại của tổng thể" [56]. Về phần mình, hệ thống dòng chảy – lòng dẫn đ−ợc coi là một hệ nhỏ trong một hệ thống lớn hơn dòng chảy mặt – l−u vực sông ngòi, là một phần của hệ địa lý. Các quá trình xói mòn – tích tụ trên l−u vực (một trong số đó là quá trình lòng sông) th−ờng gây ảnh h−ởng đáng kể đến sự hình thành địa hình lòng sông, tuy nhiên các vấn đề này nằm ngoài khuôn khổ nghiên cứu này. Trong lý thhuyết hệ thống tổng quát đã xác định các hạng chủ yếu cho phép nghiên cứu hệ thống các dạng khác nhau trên cơ sở ph−ơng pháp luận duy nhất. Các hạng này tập trung xem xét trong phụ lục đến hệ thống dòng chảy – lòng dẫn. 1.1. Các nguyên tố Địa hình lòng sông – đó là dạng bề mặt kết nối (liên tục hay có chu kỳ) các đất đá xói lở với chất lỏng chuyển động, thay đổi hình dáng của mình do tác động qua lại của chúng. Các nguyên tố chính trong tổ hợp địa hình lòng sông là các dạng sóng. Dạng sóng của địa hình lòng sông là một phần bề mặt (th−ờng một mức đẳng cấp xác định), trong phạm vi của nó gradient x z ∂ ∂ và y z ∂ ∂ trong hệ thống hệ toạ độ cong trực giao, gắn liền với bề mặt so sánh không có chỗ nào thay đổi từ âm (không) sang d−ơng. Với cấu trúc bậc xác định của địa hình lòng sông (tr−ờng hợp phổ biến nhất) bề mặt so sánh gắn với hệ toạ độ của các bề mặt dạng nhỏ là bề mặt lớn hơn. Th−ờng với việc xử lý bằng tay các bản đồ t−ơng tự của lòng dẫn trong các đ−ờng đồng mức, mặt cắt hồi âm, các lát cắt thẳng đứng của địa hình (dọc hay ngang) hay là các sao chép bề mặt không xuất hiện các phức tạp có tính nguyên tắc khi xác định các dạng địa hình lòng dẫn âm hay d−ơng. Chu trình phân tách tuần tự các sóng kích th−ớc khác nhau (bậc) ra các mặt cắt dọc đã đ−ợc soạn thảo khi phân tích địa hình sóng trong hạ l−u Enhixei [93]. Hình 1.1. Sơ đồ phân chia các nguyên tố địa hình lòng sông trên lát cắt a – đối với sông Niger theo hình thái học các tổ hợp hình dạng đáy, b – đối với lòng dẫn th−ợng nguồn sông Obi có tính đến động lực hình dạng đáy. 1 – rãnh; 2 – cồn cát; 3 – điểm cản dòng; 4 – ranh giới lòng dẫn Ph−ơng pháp t−ơng tự đ−ợc G. A. Alecxayev [2] sử dụng. Trên mặt cắt đáy sông (đ−ờng 0) tách ra các điểm, nơi mà gradient thay đổi từ âm (không) sang d−ơng. Các điểm đặc biệt này đánh dấu đáy giữa hai sóng (hõm). Sau đó nối các đáy bằng một đ−ờng mềm mại I, nó đã loại bỏ các sóng nhỏ nhất trên đáy 11 12 sông ra khỏi tập các sóng lớn. Sau đó trên đ−ờng I lại đánh dấu các điểm, tại đó diễn ra sự thay thế gradient từ âm (không) sang d−ơng và nối các điểm bởi đ−ờng II. Các đ−ờng I và II hạn chế các sóng bậc cao hơn. Chu trình mô tả trên đ−ợc lặp lại cho đến khi trên mặt cắt không còn lại điểm thay đổi gradient từ âm (không) sang d−ơng (Hình 1.1a). Về hình thức, chu trình này không tính đến các liên kết thạch học và địa tầng. Tuy nhiên ranh giới thạch học và địa tầng th−ờng là đồng thời và cả với ranh giới dạng lòng dẫn. Các ranh giới quan trọng nhất với sự biến đổi đột ngột thạch học và đất đá tăng vọt. Dạng ranh giới nh− vậy cần đ−ợc làm rõ tr−ớc khi tách các dạng địa hình sóng d−ơng. Nó đ−ợc coi là bề mặt so sánh cuối cùng . Trên các đoạn riêng biệt của đáy sông, cấu trúc đẳng cấp của địa hình đơn giản hơn. Khi đó đ−ờng 0 có thể trùng với các đ−ờng I và II và hơn thế. Trong tr−ờng hợp này chu trình đã mô tả dẫn tới sự phân chia không có cơ sở các dạng địa hình d−ơng lớn và phân chia khách quan không tồn tại các dạng nhỏ hơn (xem hình 1.1b). Để triệt tiêu điều đó cần tập trung phân tích tính linh động của ranh giới các dạng, tức là so sánh đạo hàm t z ∂ ∂ . Nếu nh− trong phạm vi đ−ờng m có đoạn, tính linh động của các điểm trên đó phân biệt với tính linh động trung bình đ−ờng m m t z ⎟⎟⎠ ⎞ ⎜⎜⎝ ⎛ ∂ ∂ và đồng thời xấp xỉ với tính linh động trung bình km t z + ⎟⎟⎠ ⎞ ⎜⎜⎝ ⎛ ∂ ∂ tức là có lẽ đoạn đã cho thuộc đ−ờng m+k. Kết quả của việc phân tích nh− vậy có thể làm rõ cả ranh giới thạch học, nh−ng để làm điều đó cần phải thực hiện một loạt mặt cắt đáy nhận đ−ợc vào các thời gian khác nhau theo cùng một và chỉ một đ−ờng. Khi thiếu các số liệu nh− vậy đành phải sử dụng các thông tin chung về dạng xác suất các dạng lòng dẫn d−ơng đ−ợc tách ra. Ph−ơng pháp mô tả một cách tự nhiên đ−ợc phổ biến đến việc phân chia các dạng bề mặt đáy với sự hiện diện của bản đồ địa thế vị t−ơng tự của lòng dẫn bằng các đ−ờng đẳng thế vị. Hình 1.2. Các nguyên tố hình học chính của hình dạng lòng dẫn Các dạng lòng dẫn chính: a.lòng thẳng; b. cong; c. đoạn mở rộng; d. đoạn thắt; e. phân nhánh; f. hợp l−u; g – lồi; h – lõm; i – l−ợn; k – đảo Các điểm đặc biệt: 1– uốn; 2 – gấp khúc; 3. đỉnh; 4 – quay vòng; 5 – mép phân nhánh; 6 – đầu đảo; 7 – mép hợp l−u; 8 – đ−ờng trục; 9 – đ−ờng bờ không khép kín; 10 – đ−ờng bờ