Tóm tắt
Truyện Kiều là tác phẩm lớn của văn học dân tộc, một truyện thơ cổ điển kết hợp nhuần nhuyễn của tính
dân gian và tính bác học. Chất dân gian của Truyện Kiều thể hiện trong cách nói, cách cảm, cách nghĩ
của người tường thuật và các nhân vật, trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng – tình cảm của
tác phẩm. Sự tổng hợp hoàn chỉnh của chất bác học và chất dân gian góp phần làm cho Truyện Kiều
trường tồn và được phổ biến rộng rãi.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất dân gian của Truyện Kiều, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016
14
Chất dân gian của Truyện Kiều
The folk quality of Kieu Tale
TS. Nguyễn Thị Kim Ngân,
Trường Đại học Sài Gòn
Ph.D. Nguyen Thi Kim Ngan,
Sai Gon University
Tóm tắt
Truyện Kiều là tác phẩm lớn của văn học dân tộc, một truyện thơ cổ điển kết hợp nhuần nhuyễn của tính
dân gian và tính bác học. Chất dân gian của Truyện Kiều thể hiện trong cách nói, cách cảm, cách nghĩ
của người tường thuật và các nhân vật, trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng – tình cảm của
tác phẩm. Sự tổng hợp hoàn chỉnh của chất bác học và chất dân gian góp phần làm cho Truyện Kiều
trường tồn và được phổ biến rộng rãi.
Từ khóa: chất dân gian, Truyện Kiều, Nguyễn Du, chất bác học
Abstract
Kieu Tale is a masterpiece of traditional literary. It is a tale of classical poetry that marries the folk
poetry with the savant. The folk substances of Kieu Tale can be found in the manners how the narrators
and the literary characters tell and perceive in term of poetics and thoughts and feeling as well. The
perfect aggregation of the savant and folk quality makes the Kieu Tale everlasting and widespread.
Keywords: folk substance, Kieu Tale, Nguyen Du, the savant
Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác
phẩm lớn của văn học dân tộc. Một trong
những đặc điểm quan trọng của Truyện
Kiều là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính dân
gian và tính bác học. Đặc điểm này đã tạo
nên giá trị và tính phổ biến của tác phẩm,
làm cho Truyện Kiều được lưu truyền rộng
rãi trong nhân dân từ đời này sang đời khác.
Chất dân gian trong Truyện Kiều bộc lộ qua
cách nói, cách cảm và cách nghĩ của
Nguyễn Du, của người tường thuật cũng
như của các nhân vật trong tác phẩm. Tìm
hiểu chất dân gian của Truyện Kiều sẽ giúp
chúng ta hiểu thêm vì sao tác phẩm của
Nguyễn Du trường tồn qua thời gian, gần
gũi với công chúng và được yêu mến
rộng rãi.
Kết thúc Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh
“Lời quê”ở đây có thể hiểu là cách nói
khiêm tốn của Nguyễn Du, nhưng đồng
thời cũng có thể hiểu là ông nói thực khi
không làm thơ bằng chữ Hán mà bằng chữ
Nôm, khi không sử dụng những thể thơ tứ
tuyệt hay thất ngôn với niêm luật chặt chẽ
mà dùng thể thơ lục bát mà chắc chắn cho
đến lúc đó vẫn còn được xem là tiếng nói
của người dân quê. Việc chọn thể thơ lục
bát để kể lại Kim Vân Kiều truyện đã đưa
15
tác phẩm của Nguyễn Du vào hàng các
truyện Nôm và vì vậy ngay từ đầu nó đã
mang chất dân gian rất rõ.
Vì sao một ông quan, một nhà Nho
dòng dõi, tác giả của Nam trung tạp ngâm,
Bắc hành tạp lục lại chọn dịch một truyện
tài tử - giai nhân như Kim Vân Kiều truyện
và chọn một thể thơ “quê” như lục bát? Có
lẽ bởi vì Nguyễn Du thuộc lớp “nhà nho tài
tử” (chữ của Trần Đình Hượu), muốn tìm
một chút phóng túng trong những câu
chuyện tài tử - giai nhân và trong một thể
thơ bình dân, thoải mái, thoát khỏi “luật
thơ nghiêm như luật hình” (Phạm Quỳnh)
để thõa mãn một phần cái chất phi chính
thống, ý thức tự do trong con người nghệ sĩ
của nhà thơ. Cũng có lẽ vì những năm trẻ
tuổi Nguyễn Du đã từng sống ở Tiên Điền,
thường sang Trường Lưu chơi và hát
phường vải. Những câu hát dân gian đã để
lại trong Nguyễn Du ấn tượng sâu sắc và
thị hiếu thẩm mỹ của nhà thơ đã chịu ảnh
hưởng một phần của thị hiếu dân gian. Có
lẽ chính vì thế mà Nguyễn Du đã chọn “lời
quê” để kể câu chuyện về đời Kiều và nhờ
“lời quê” ấy, tác phẩm của nhà thơ đã
nhanh chóng đi vào quần chúng và bước
vào quỹ đạo của những giá trị văn hóa
truyền thống đậm đà bản sắc dân gian.
Lục bát là “lời quê", nhưng “lời quê”
không chỉ thể hiện trong lối nói bằng câu
thơ lục bát. Trong Truyện Kiều chúng ta
bắt gặp rất nhiều câu thơ gần với lời ăn
tiếng nói hàng ngày của người bình dân:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Cò kè bớt một thêm hai
Hồi lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu
Thậm chí có những câu không khác gì
những lời nói dân dã:
Lại còn bưng bít dấu quanh
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười
Bây giờ đất thấp trời cao
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao
Đặc biệt có những câu đúng là lời quê
vì ở đây có những chữ, những cách nói mà
có lẽ chỉ người dân quê mới biết, mới
dùng, ví dụ:
Ông bà càng nói càng đau
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa
(Bản của Đào Duy Anh chép:.. “càng rầu
như dưa”)
Hay:
Kẻo khi sấm sét bất kỳ
Con ong cái kiến kêu gì được oan
Cho gươm mời đến Thúc Lang
Mặt như chàm đổ mình dường giẻ (dẽ) run
Tuy nhiên nếu nói đến chất gian trong
cách nói của Nguyễn Du, phải thừa nhận
rằng việc sử dụng tục ngữ và thành ngữ
trong Truyện Kiều là yếu tố gây ấn tượng
hết sức mạnh mẽ. Nhiều thành ngữ như “ăn
xổi ở thì”, “miệng hùm nọc rắn”, “mèo mả
gà đồng”... đã đi vào câu thơ của Truyện
Kiều một cách tự nhiên thoải mái:
Phải điều ăn xổi ở thì
Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày
Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
Thân ta ta phải lo âu
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này
Đáng chú ý nhất là Nguyễn Du đã sử
dụng tài tình cách tổ chức lời thơ dựa trên
tinh thần hay kết cấu của tục ngữ, làm cho
cách diễn đạt của tác giả gần với cách nghĩ
của người nghe, người đọc bình dân và câu
thơ cũng trở nên gần gũi quen thuộc với
họ. Trong Truyện Kiều có khá nhiều câu
như vậy. Có trường hợp Nguyễn Du mượn
ý của tục ngữ để nói, ví dụ như:
16
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng
Thôi con còn nói chi con
Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người
(Tục ngữ: "Sống gửi thác về”)
Hay:
Tẻ vui bởi tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai
(Tục ngữ: “Khổ tận cam lai”)
Nhưng nhiều trường hợp Nguyễn Du
gần như đưa nguyên câu tục ngữ vào mà lời
thơ vẫn ngọt ngào, không chút khiên cưỡng:
Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ, kiếp nào trả xong
(Tục ngữ: “Công cha nghĩa mẹ”)
Vợ chàng quỉ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
(Tục ngữ: “Kẻ cắp gặp bà già”)
Sợ khi ong bướm đãi đằng
Đến điều sống đục sao bằng thác trong
(Tục ngữ: “Sống đục sao bằng thác trong”)
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can trường vào đâu
(Tục ngữ: “Đá thử vàng”)
Cùng với việc sử dụng thể thơ lục bát
và lời ăn tiếng nói dân gian, Nguyễn Du đã
chọn cách tổ chức lời thơ theo thi pháp của
thơ ca trữ tình dân gian, thi pháp ca dao và
điều đó đã làm cho âm điệu và màu sắc dân
gian của Truyện Kiều càng thêm nổi bật.
Người bình dân vốn quen với những câu
hát dân gian, vì vậy những câu thơ có kết
cấu nhịp điệu và hình ảnh tương tự với ca
dao dân ca dễ mang lại cảm giác gần gũi
thân thuộc. Ấn tượng về chất dân gian sâu
đậm của Truyện Kiều có lẽ một phần cũng
bắt nguồn từ đây.
Không có điều kiện đi sâu phân tích
sự tương đồng về thi pháp của Truyện Kiều
và ca dao, ở đây chúng tôi chỉ dừng lại nêu
lên mấy điểm sau.
Thứ nhất là tính chất và cấu trúc lời
thơ: Có nhiều trường hợp câu thơ Kiều
giống với câu ca dao. Đầu tiên là những
câu giống nhau gần như hoàn toàn:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng
(Ca dao)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gốc chiếc, nửa soi dặm trường
(Truyện Kiều)
Hay:
Lặng nghe lời nói như ru
Đêm thu dễ khiến nét thu ngại ngùng
(Ca dao)
Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng
(Truyện Kiều)
Về những trường hợp này các nhà
nghiên cứu đã có ý kiến nhận xét: “Thực ra
quả là khó mà xác định được rằng ở đây
Truyện Kiều đã chịu ảnh hưởng của thơ ca
dân gian hay là thơ ca dân gian đã chịu ảnh
hưởng của Truyện Kiều” (Đinh Gia Khánh)(1).
Tiếp theo là những trường hợp giống
nhau một phần:
Trăm năm đá nát vàng phai
Lời nguyền với bạn nhớ hoài không quên
(Ca dao)
Thẹn mình đá nát vàng phai
Trăm năm dễ chuộc một lời được sao
(Truyện Kiều)
Trăm năm nước chảy đá mòn
Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thương
(Ca dao)
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Con tằm đến thác cũng còn vương tơ
(Truyện Kiều)
Có trường hợp câu Kiều và câu ca dao
chỉ giống nhau một chữ:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
(Ca dao)
17
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn
Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân
(Truyện Kiều)
Dù chỉ giống nhau ở chữ “hạt mưa”
nhưng câu Kiều vẫn phảng phất hơi ca dao
do gắn với nỗi buồn về thân phận người phụ
nữ chồng chất trong biểu tượng “hạt mưa”.
Trong Truyện Kiều không hiếm những câu
như vậy. Chẳng hạn khi Nguyễn Du viết:
Khóc than khôn kiếp sự tình
Khéo vô duyên bấy là mình với ta
Chúng ta như nghe đâu đó âm điệu
câu ca dao:
Mình về có nhớ ta chăng
Ta như lạt buộc khăng khăng đợi mình
Nhưng có lẽ ấn tượng về âm lượng ca
dao của câu thơ Kiều hiện lên rõ nét nhất
trong cách cấu trúc câu thơ. Chúng ta đều
biết lục bát là thể thơ giàu chất nhạc. Nhạc
điệu của câu thơ lục bát bộc lộ trong nhịp,
trong vần, đặc biệt là trong lối tổ chức câu
thơ theo nguyên tắc đối xứng và song
hành. Câu lục bát ca dao thường có hai lối
đối xứng và song hành chủ yếu. Thứ nhất
là kiểu: Ong bay bướm lượn/ Trăng tắt sao
thưa/ Én liệng nhạn bay/ Gừng cay muối
mặn/ Vàng tan ngọc nát/ Sông cạn đá mòn/
Đá nát vàng phai:
Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng có quên
Một lòng chỉ quyết lấy anh
Ong bay bướm lượn chung quanh mặc Trời
Nửa đêm trăng tắt sao thưa
Em mong thầy mẹ ngủ, em đưa anh về
Dạng thứ hai là kiểu: Tình kia chưa
trả, nghĩa này chớ quên/ Khi trăng đang tỏ,
khi hoa đang thì/ Ngày thì dãi nắng, đêm
thì dầm sương:
Nước vơi rồi lại nước đầy
Tình kia chưa trả, nghĩa này chớ quên
Một niềm vàng đá khăng khăng
Ba thu cũng đợi, chín trăng cũng chờ
Có thể nói đây là những khuôn hình
phổ biến của câu lục bát dân ca, đồng thời
cũng là cách cấu trúc phổ biến của câu thơ
Kiều. Trong Truyện Kiều chúng ta bắt gặp
dày đặc những câu theo dạng thứ nhất: Hoa
trôi bèo dạt/ Rung cải rơi kim/ Bèo nổi mây
chìm/ Gió kép mây đơn/ Bướm chán ong
chường/ Sớm đào tối mận/ Bể Sở sông
Ngô/ Muôn oán nghìn sầu/ Gió thảm mưa
sầu/ Ve ngân vượn hót...
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Cũng như những câu theo kiểu thứ hai:
Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha
Nàng thì dặm khách xa xăm
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh
Sự tương đồng về cấu trúc câu thơ làm
cho nhiều câu Kiều đọc lên nghe như câu
ca dao. Điều này cũng giải thích vì sao
Truyện Kiều dễ đi vào lòng quần chúng lao
động, được nhiều người thuộc.
Kiểu cấu trúc lời thơ như trên, ngoài
yêu cầu về tính nhạc, còn gắn với yêu cầu
về nghĩa và cái nghĩa này thường hiện ra
dưới hình thức các biểu tượng:
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
Nào người phượng chạ loan chung
Nào người tiếc lục tham hồng là ai
Trong Truyện Kiều có rất nhiều câu
mang biểu tượng như vậy. Theo thống kê
của các nhà nghiên cứu, ca dao truyển
thống có khoảng trên dưới 100 biểu tượng
về thiên nhiên(2). Trong Truyện Kiều, theo
khảo sát ban đầu của chúng tôi có gần 40
18
biểu tượng như vậy. Đó là các biểu tượng
như: Ong bướm, Gió trăng, Hoa trôi bèo
dạt, Đá vàng, Phong Nguyệt, Nước non,
Nguyệt hoa, Yến oanh, Vườn hồng (Chim
xanh), Trúc mai, Đào mận, Đào liễu, Hoa
bướm, Nhện tơ, Đèn trăng, Tằm tơ, Thuyền
bến, Thuyền sóng, Cá chim, Rồng phượng,
Phượng loan, Cá nước, Bèo sóng, Bèo
mây, Hoa đèn
Vẻ chi một đóa yêu đào
Vườn hồng đâu dám ngăn rào chim xanh
(Truyện Kiều)
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
(Ca dao)
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ
Ruột tằm đôi đoạn như tơ rối bời
(Truyện Kiều)
Ruột tằm bối rối tơ vương
Như ai để nhớ để thương trong lòng
(Ca dao)
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời
(Truyện Kiều)
Lời thề chứng có nước non
Vàng tan ngọc nát vẫn còn thương nhau
(Ca dao)
Biểu tượng là những hình tượng mang
ý nghĩa tượng trưng được cố định hóa, lặp
đi lặp lại nhiều lần, chứa đựng một nội
dung qui ước. Chính nhờ có nhiều biểu
tượng trùng hợp hoặc gần gũi với ca dao
truyền thống mà câu thơ Kiều dễ đi vào
lòng người, nhanh chóng được người nghe
người đọc tiếp nhận theo kiểu nói ít hiểu
nhiều vì có cùng chung một “ngôn ngữ”,
một cách nói, cách cảm, cách nghĩ.
Ở trên chúng tôi đã phân tích một số
đặc điểm thuộc về cách nói của Nguyễn
Du. Những đặc điểm này thường gây ấn
tượng trực tiếp về sự gần gũi của Truyện
Kiều với văn học dân gian. Tuy nhiên, sự
đồng cảm của người bình dân với Truyện
Kiều chủ yếu không nằm ở đó. Cách nói là
cái để dễ tiếp cận ban đầu, nhưng cách
cảm, cách nghĩ mới là cái chính. Bởi vậy
khi tìm hiểu chất dân gian của Truyện
Kiều, nếu chỉ xem xét cách nói của Nguyễn
Du thể hiện trong lối sử dụng thể thơ lục
bát, sử dụng thành ngữ, tục ngữ, biểu
tượng, hay lối cấu tạo lời thơ thì không đủ.
Nhận xét về thơ ca trữ tình dân gian,
nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh nói rằng
trong ca dao “Âm điệu nhớ, thương, buồn,
thường lặp đi lặp lại”, phản ánh tâm trạng
của con người trong hoàn cảnh xã hội còn
nhiều điều ngang trái, nghèo nàn và lạc
hậu, bất công(3). Quả đúng như vậy, đọc ca
dao chúng ta bắt gặp không biết bao nhiêu
chữ buồn, chữ nhớ, chữ thương, và những
câu thơ mang âm điệu ấy:
Ra về nhớ bạn khóc thầm
Nằm thân áo vải ướt đầm cả năm
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Thương cha thương mẹ có khi
Thương em lúc đứng lúc đi lúc ngồi
Thương thương nhớ nhớ sầu sầu
Một ngày ba bận ra cầu đứng trông
Anh buồn có chốn thở than
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu
Để ai trăng tỏ hoa sầu vì ai
Đọc Truyện Kiều chúng ta như bắt gặp
cũng tâm trạng ấy. Tác phẩm của Nguyễn
Du giống bản đàn mà Thúy Kiều gẩy cho
Kim Trọng buổi đầu gặp gỡ:
Rằng: Hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Và dù Nguyễn Du có cố tình “mua
vui” (Mua vui cũng được một vài trống
canh) thì đọc Truyện Kiều cũng chẳng ai
vui được. Âm điệu chính của Truyện Kiều
19
cũng tương tự như ca dao trữ tình, tràn đầy
nỗi nhớ, buồn, thương:
Tìm đâu cho thấy cố nhân
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương
Chạnh lòng nhớ cảnh tha hương
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê
Không chỉ Thúc Sinh nhớ. Thúy Kiều
càng nhớ nhiều hơn. Nhớ Kim Trọng, nhớ
Thúc Sinh, nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ
em. Trăm năm nỗi nhớ vây lấy người con
gái bán mình, lưu lạc, xa quê. Và cùng với
nhớ là thương.
Thương cha thương mẹ:
Xót thay huyên cỗi xuân gìà
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi
Thương nhớ người yêu:
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Thương mình:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Thương, nhớ và buồn:
Buồn trông phong cảnh quê người
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa
Nỗi buồn theo chân Kiều suốt chặng
đường mười lăm năm lưu lạc:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngay ngắn đông đà sang xuân
Buồn ám ảnh Kim Trọng, Thúc Sinh,
cha mẹ Thúy Kiều và bám chặt đời Kiều:
Sầu này dằng dặc muôi đời chưa quên
Nỗi buồn xuyên suốt Truyện Kiều như
khúc “đoạn trường Tân Thanh, như tiếng
kêu não ruột. Âm điệu chung của Truyện
Kiều cũng như âm điệu chung của ca dao
trữ tình truyển thống. Cái điệu tình cảm
trong câu thơ Kiều”.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Nghe như phảng phất âm điệu câu ca dao:
Chiều chiều én liệng nhạn bay
Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai
Hay:
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ
Nhưng cái điệu tình cảm NHỚ,
THƯƠNG, BUỒN chỉ là một phần trong
những thứ tạo nên chất dân gian trong cách
cảm của Nguyễn Du. Quan trọng là bên
cạnh cái giọng tình cảm ấy, trong cái ruột
của nó, chúng ta thấy tấm lòng của Nguyễn
Du thương xót con người, đồng cảm với
thân phận người phụ nữ, thậm chí Nguyễn
Du còn như đau hơn, phẫn uất hơn ca dao
chỉ nói:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Nhưng trong Truyện Kiều, số phận
người phụ nữ như cay nghiệt hơn:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Cái câu “Lời rằng bạc mệnh cũng là
lời chung” này có ý nghĩa khái quát rất lớn.
Nó nói lên rằng “bạc mệnh” không chỉ có
Thúy Kiều, không chỉ có những người tài
sắc mà là với “phận đàn bà” nói chung. Và
đã là “lời chung” thì cũng không phải chỉ
“phận đàn bà” mà còn là của kiếp người.
Nguyễn Du nhiều lần than về kiếp người
đau khổ:
Khéo là mặt dạn mày dày
Kiếp người đã đến thế này thì thôi
Thương thay cũng một kiếp người
Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi!
Xét về một phương diện nào đó, có
thể nói Truyện Kiều không phải là bức
tranh về hiện thực xã hội phong kiến thối
nát, cũng không phải câu chuyện oan trái
về tài và mệnh mà chính là câu chuyện về
kiếp người, những thăng trầm trong kiếp
làm người. Thúy Kiều chỉ là hình ảnh
tượng trưng cho nỗi khổ chung của kiếp
người. Nỗi khổ ấy hiện diện đầy đủ nhất ở
thân phận người phụ nữ và càng rõ nét hơn
20
ở người phụ nữ có tình, có sắc, có tài,
nhưng trên hết nó là nỗi khổ chung của
kiếp người và cái lớn của Nguyễn Du, cái
làm nên tính phổ biến của Truyện Kiều
chính là nêu lên được nỗi đau chung ấy.
“Cái ám ảnh ông không phải là những cuộc
đời cụ thể mà là cái số kiếp chung” (Trần
Đình Hượu)(4). Người bình dân yêu mến
Truyện Kiều không chỉ vì cảm thương số
phận hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều
mà cái chính là qua nỗi đau của người con
gái tài sắc, qua thân phận của người phụ nữ
họ thấy được cái tình với nỗi đau chung
của kiếp người, cái kiếp người mà họ vẫn
thường than vãn trong ca dao:
Bắc thang lên hỏi ông Trời
Cớ sao nỡ để kiếp người đắng cay(5)
Cái tình ấy lớn đến mức nhiều lúc nó
vượt lên trên cái lí thông thường, biến
thành lòng vị tha, khoan dung, có sức
thuyết phục hơn cả mọi lý lẽ. Trong
Truyện Kiều, khi Sư Tam Hợp nói rằng
Thúy Kiều “Mắc điều tình ái khỏi điều tà
dâm” thì đó chính là sự phán xét không
phải dựa trên cái lý của đạo đức phong
kiến mà dựa trên cái lí của chữ tình. Điểu
này lại càng rõ hơn nữa khi chúng ta nghe
Kim Trọng lý giải về chữ Trinh. Đáp lại lời
từ chối của Thúy Kiều khi tái hợp, muốn
“Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” với lí do
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa
Kim Trọng khăng khăng một mực
không bằng lòng với lí lẽ rằng:
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Và vì “nàng lấy hiếu làm trinh” nên
“Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”. Nói
rằng “lấy hiếu làm trinh” và “chữ trinh kia
cũng có ba bảy đường" thì cũng có cái lí
của nó, nhưng đó có lẽ không phải là cái lí
theo cách nghĩ thông thường; nó là cái lí
của tình yêu thương, lòng vị tha. Sự phán
xét dựa trên lòng yêu thương, sự khoan
dung ấy của Nguyễn Du cũng như của các
nhân vật của Truyện Kiều cũng là một nét
chung của văn hóa Việt. “Lòng nhân ái,
khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa
là truyền thống quí báu của nhân dân ta.
Tính nhân bản này được này sinh từ tính ôn
nhu của người làm nông nghiệp lúa nước,
hẳn đã được hình thành từ thời Đông Sơn”
(Hà Văn Tấn)(6).
Tấm lòng thương người, sự thông cảm
với nỗi đau khổ của người phụ nữ và của
kiếp người là mẫu số chung của Truyện
Kiều và ca dao, của Nguyễn Du và quần
chúng nhân dân. Cái tình ấy, lòng nhân ái
ấy là cái lõi của chất dân gian trong tác
phẩm Nguyễn Du.
Cái lõi ấy lại được nhân lên, được tô
đậm bởi sự gần gũi trong cách nghĩ, cách
hành xử của các nhân vật, của người kể
chu