Chiếc quạt nan chỉ là một vật đại diện bé nhỏ và khiêm tốn
khi so sánh với nền thủ công mây tre đan của Việt Nam.
Khi tìm những thông tin về các làng nghề thủ công mây tre
đan, bất chợt trong đầu tôi hiện lên những hình ảnh cách
đây gần 20 năm.
25 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 2548 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiếc quạt nan và nghề mây tre đan truyền thống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chiếc quạt nan và nghề
mây tre đan truyền thống
Chiếc quạt nan chỉ là một vật đại diện bé nhỏ và khiêm tốn
khi so sánh với nền thủ công mây tre đan của Việt Nam.
Khi tìm những thông tin về các làng nghề thủ công mây tre
đan, bất chợt trong đầu tôi hiện lên những hình ảnh cách
đây gần 20 năm.
Bài học thủ công đầu đời
Đó là vào thời gian tôi học cấp I. Ở cấp này có một môn học
mà chắc hẳn rất nhiều bạn vẫn còn nhớ: môn Thủ công. Môn
thủ công học khá nhiều thứ, nhưng thứ mà đến lúc viết bài
này tôi nhớ ra chính là bài học về Đan nong mốt.
Có thể nói đan nong mốt là một trong những bài học sơ khởi
cho những người yêu thích công việc thủ công mây tre đan.
Nhưng ngày đó, với những đứa học trò như chúng tôi, nó chỉ
là một bộ môn “bắt buộc” phải học và ít thú vị. Chúng tôi
phải cắt giấy màu, chủ yếu là giấy màu xanh và đỏ - hai màu
phổ biến nhất thời điểm đó, thành những dải băng nhỏ hình
chữ nhật, có kích thước khoảng 15cm x 1,5cm. Công việc
này có lẽ là đơn giản nhất trong bài đan nong mốt nhưng
ngày đó chúng tôi lại khá “chật vật” vì liên tục cắt lệch, cắt
hỏng, dải to dải nhỏ không đều nhauKhi đã cắt được đủ số
lượng dải màu, bước tiếp theo, chúng tôi bắt đầu xếp
“khung”, sắp xếp một màu thành các cột hàng dọc hoặc hàng
ngang tùy theo thế tay thuận của từng đứa. Đa phần lũ chúng
tôi xếp thành những dải hàng dọc song song, số ít hơn xếp
những dải màu thành hàng ngang. Bước thứ ba, chúng tôi lấy
chân chặn lên những dải màu để giữ cho chúng khỏi xô lệch
và bắt đầu đan. Những dải màu được đan với nhau theo cách
đơn giản nhất: một nhịp xuống (dải màu chui xuống phía
dưới phần khung), một nhịp lên (dải màu đè lên trên phần
khung), một xuống, một lên
Ở khâu này, những dải màu đầu tiên thường hay bị hỏng nhất
vì bị đứt và lỏng. Nhưng khi những dải màu đầu tiên cố định
chắc chắn rồi, thì mọi việc lại trôi chảy đến mức có thể nhắm
mắt mà đan. Cứ như vậy, một xuống một lên, cho đến khi
những dải màu ngang đan kín phần khung dọc. Lúc này, bài
thủ công đan nong mốt của chúng tôi mới thực sự thành hình,
và đứa nào cũng ít nhiều sung sướng khi thấy một vuông màu
với những hình vuông nhỏ đan xen nhau: xanh kế tiếp đỏ, đỏ
nối liền xanh, đều đặn và đẹp mắt. Càng về sau, khi bài đan
nong mốt đã thành thục, có những đứa khéo tay còn biến tấu
bài đan thành những hoa văn khá lạ và đẹp mắt, với độ khó
và phức tạp gấp nhiều lần bài đan nong mốt ban đầu.
Đan nong mốt
Đan nong đôi
Bài học ngày đó, nghĩ lại thì chúng chẳng hữu dụng nhiều
trong cuộc sống hiện tại của chúng tôi. Vì với những đứa trẻ
sinh ra gần thành phố, công việc thủ công là một cái gì đó
khá xa lạ. Nhưng với những làng nghề truyền thống và những
ai theo nghề mây tre đan, chắc hẳn bài học đan nong mốt là
một trong những bước đi đầu tiên giúp người làm mây tre
đan tiếp cận với các cách thức làm thủ công chuyên nghiệp.
Nguyên liệu phục vụ nghề mây tre đan
Từ cây tre, biết bao sản phẩm hữu ích đã ra đời
Nguyên liệu chính phục vụ cho ngành nghề mây tre đan của
Việt Nam bao gồm: tre, mây, giang, nứa, lồ ô. Những
nguyên liệu này đều có nguồn gốc tự nhiên, thân thiện với
môi trường và an toàn cho người sử dụng. Hiện tại, nguồn
nguyên liệu mây tre chủ yếu phụ thuộc vào một số địa
phương miền núi phía Bắc như Hòa Bình, Sơn La, Điện
Biên
Và dù nguồn nguyên liệu được mệnh danh là “sẵn có trong tự
nhiên”, nhưng một trong những khó khăn của các làng nghề
mây tre đan lại chính là do sự phụ thuộc và sự bất ổn của
nguồn nguyên liệu này. Sản phẩm làm ra tiêu thụ được,
nhưng nguyên liệu đôi khi lại khan hiếm và có chất lượng
không đạt yêu cầu.
Các sản phẩm mây tre đan
Chiếc quạt nan chỉ là một ví dụ nhỏ, ngoài quạt nan, rất nhiều
các vật phẩm bằng mây tre khác hàng ngày hàng giờ vẫn góp
mặt vào cuộc sống của người Việt. Ví dụ như rổ rá, một trong
những vật dụng mà hầu hết gia đình Việt Nam đều đã từng và
hiện vẫn đang sử dụng. Rổ rá là cách gọi chung dành cho các
đồ đựng làm từ nan tre (sợi mỏng tách ra từ cây tre), thường
có dạng nửa hình tròn, có viền cạp cứng, lòng võng xuống để
đựng thực phẩm, rau củ. Tùy theo từng loại nan, cách đan,
kích thước và hình dáng mà người ta phân ra làm nhiều loại
có tên gọi khác nhau, ví như Thúng là đồ đan bằng nan tre
khít nhau, khá rộng và to, thường dùng để đựng ngũ cốc; hay
như Rổ, cũng đan bằng nan tre nhưng có mắt đan thưa,
thường dùng để đựng, rửa rau dưa, củ quả; Rá có mắt đan
khít hơn, kích thước nhỏ hơn so với rổ, thường dùng để vo
gạo và đựng ngũ cốc hạt nhỏ
Rổ rá, nong nia đan từ nan tre – những vật dụng quen thuộc
với người dân Việt Nam
Bài học đan nong mốt, nong đôi áp dụng trong nghề đan lát
của người Việt
Kiểu cách đan cũng không chỉ bó hẹp với “nong mốt”, “nong
đôi”, mà còn mở rộng với nhiều cách thức đan tinh xảo khác:
đan mắt cáo, đan mắt na, đan rối
Không dừng lại ở các vật dụng sinh hoạt quen thuộc hàng
ngày như đã kể trên, ngành nghề mây tre đan của Việt Nam
còn phát triển ở mức cao hơn, khi đưa ra thị trường những
sản phẩm vô cùng tinh tế và độc đáo.
Hộp đựng kim chỉ đan từ mây tre
Giỏ đựng quần áo
Bộ bàn ghế mây tre đan
Đèn mây tre đan mắt sầu riêng
Đèn thả trần mắt cáo
Ghế nghỉ lồng từ tre
Hộp cơm suất làm từ tre
Các làng nghề mây tre đan ở Việt Nam
Có rất nhiều người khi nhìn những sản phẩm tinh xảo nói
trên thì đều cho rằng chúng có xuất sứ từ nước ngoài. Nhưng
thực tế, những sản phẩm đó 100% là từ những người thợ thủ
công của Việt Nam. Những làng nghề mây tre đan hiện đang
rất phát triển, tạo thu nhập ổn định cho người dân địa
phương. Có thể kể ra đây một số làng nghề mây tre đan nổi
tiếng như:
Làng nghề mây tre đan ở Ninh Sở, Hà Nội: Đây là một trong
những làng nghề ven đô nổi tiếng bởi sự khéo léo của nghệ
nhân và sự đa dạng, tinh tế của các sản phẩm. Trong khi
nhiều làng nghề mây tre đan khác sống “lay lắt” thì ở Ninh
Sở, làng nghề đông vui nhộn nhịp hiếm thấy.
Làng nghề mây tre ở Ninh Sở vẫn được nuôi dưỡng bởi
những con người tâm huyết
Làng nghề mây tre đan Tăng Tiến – huyện Việt Yên tỉnh Bắc
Giang: Một làng nghề có hơn 300 năm truyền thống, được
coi là một trong những làng “giữ lửa” cho nghề mây tre đan.
Tuy có nhiều khó khăn nhưng người dân nơi đây vẫn bám trụ
và có thu nhập ổn định từ nghề mây tre đan.
Một hộ gia đình đang làm sản phẩm mây tre ở xã Tăng Tiến
– Bắc Giang
Làng nghề mây tre đan ở Ngọc Động, Hoàng Đông, Duy
Tiên, Hà Nam: Ngày mới ra đời, ở đây chủ yếu sản xuất ghế
mây. Sản phẩm này ngay lập tức được nhiều người chấp nhận
bởi mẫu mã đẹp lại phù hợp với khí hậu nhiệt đới. Khi
chuyển đổi cơ chế, làng nghề Ngọc Động cũng gặp không ít
khó khăn. Song lớp thợ Ngọc Động đã tìm cách nâng cao
chất lượng, cải tiến mẫu mã, hướng đến thị trường ở Tây Âu
và các nước Đông Nam Á. Nhờ vậy làng nghề đã trụ vững và
đi lên.
Học sinh làng Ngọc Động làm thêm trong kỳ nghỉ hè
Làng mây tre đan Phú Vinh, Phú Nghĩa, Chương Mỹ, Hà Tây
(tên cũ Phú Hoa Trang): đây được coi là nơi xuất hiện nghề
mây tre đan ở Hà Tây. Từ nhu cầu cuộc sống mà người dân
Phú Vinh đã tận dụng những nguyên liệu sẵn có như mây, tre
để sản xuất những sản phẩm thông dụng với mục đích sử
dụng trong gia đình. Bằng óc sáng tạo và đôi bàn tay khéo
léo mà nghề mây tre đan ở đây ngày một thịnh vượng.
Một buổi làm việc của người thợ thủ công làng nghề Phú
Vinh
Đôi lời kết
Trong khi làng nghề Việt Nam nói chung và nghề mây tre
đan nói riêng đang gặp nhiều khó khăn, thậm chí một số làng
nghề đứng trên bờ vực mai một, thì những sản phẩm mây tre
đan của những làng nghề nổi tiếng nêu trên vẫn là một minh
chứng cho thấy: những sản phẩm được làm ra bởi sự khéo
léo, kinh nghiệm lâu đời, cộng với cái tâm yêu quý, trân
trọng và bảo tồn nghề truyền thống – chắc chắn vẫn có chỗ
đứng vững dù cho xã hội có biến động không ngừng.