Tóm tắt
Thế giới đang chuyển mình sang một kỷ nguyên mới, thời đại mà con người tiếp xúc, tiêu thụ nội dung
số ngày càng nhiều hơn. Làn sóng công nghệ số đang phát triển nhanh chóng và có tác động mạnh mẽ tới
tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh việc hàng ngày phải tiếp nhận và ứng dụng công nghệ số để
nâng cao năng lực cạnh tranh, những yêu cầu đặt ra về phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương
hiệu của doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan đến các nội dung số cũng là thách thức không nhỏ đối
với các các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo và chính bản thân các doanh nghiệp. Bài viết
dưới đây đề cập đến một số nội dung cơ bản như: Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ số hóa nền kinh tế; Những giải pháp chiến lược
phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số - Sự tham gia của các trường đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.+2$+&9j&1*1*+
ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
1SỐ 4 (2018)8
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NHẰM
XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU DOANH NGHIỆP TRONG
KỶ NGUYÊN SỐ - SỰ THAM GIA CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT STRATEGY TO BUILD THE BRAND
OF ENTERPRISES IN THE DIGITAL ERA – THE PARTICIPATION OF UNIVERSITIES
VŨ XUÂN TRƯỜNG *
1. Mở đầu
Với 25 tỷ thiết bị kết nối Internet; 3,3 tỷ cư dân
mạng xã hội và online trung bình 2 giờ mỗi ngày;
1.200 tỷ video trên Youtube và cần 3.400 năm để
một người xem hết số video này... Thế giới số,
không gian số, khách hàng số, hành vi tiêu dùng số
đã đặt ra nhu cầu, xu hướng tự nhiên cho các doanh
nghiệp muốn xây dựng và quảng bá thương hiệu
của mình, đem sản phẩm đến gần nhất với người
tiêu dùng thì không thể bỏ qua hoạt động liên quan
đến số hóa. Theo báo cáo của Google & Tamasek,
thị trường quảng cáo trực tuyến Việt Nam đạt 330
triệu USD năm 2015 và ước đạt con số 2 tỷ USD
vào năm 2025. Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam cũng
vừa công bố, nước ta hiện nay có khoảng 7.000
công ty quảng cáo, nhân lực đáp ứng nhu cầu cho
ngành này ít nhất là 70.000 lao động.
Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, khu
vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, khi chiếm
đến 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên
cả nước (doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh
nghiệp nhỏ chiếm 29,6% và còn lại 68,2% là siêu
nhỏ), sử dụng tới trên 50% lao động xã hội, đóng
góp trên 40% GDP, 31% xuất khẩu, 29% các khoản
thu vào ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra hàng
triệu việc làm mỗi năm, huy động các nguồn lực xã
hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo...
Liên quan đến công nghệ số, nền kinh tế Việt
Nam đang đứng trước sự tích hợp hai làn sóng đổi
mới là cải cách thể chế và làn sóng công nghệ số.
Nếu tận dụng tốt cơ hội này, cơ hội phát triển kinh
tế Việt Nam nói chung và phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa nói riêng sẽ tăng theo cấp số nhân. Theo
Tóm tắt
Thế giới đang chuyển mình sang một kỷ nguyên mới, thời đại mà con người tiếp xúc, tiêu thụ nội dung
số ngày càng nhiều hơn. Làn sóng công nghệ số đang phát triển nhanh chóng và có tác động mạnh mẽ tới
tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh việc hàng ngày phải tiếp nhận và ứng dụng công nghệ số để
nâng cao năng lực cạnh tranh, những yêu cầu đặt ra về phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương
hiệu của doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan đến các nội dung số cũng là thách thức không nhỏ đối
với các các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo và chính bản thân các doanh nghiệp. Bài viết
dưới đây đề cập đến một số nội dung cơ bản như: Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ số hóa nền kinh tế; Những giải pháp chiến lược
phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số.
Từ khóa: Xây dựng thương hiệu, phát triển nguồn nhân lực, kỷ nguyên số.
Summary
The world is transforming itself into a new era, in which people exposure and consume the digital
content more and more. The digital wave is growing rapidly and has a strong impact on all Vietnamese
businesses. In addition to the daily need to receive and apply the digital technology to enhance the com-
petitiveness, the requirements of the human resource development to build the brand of enterprises in the
fields related to the internal Capacity is also a challenge not only for the state management agencies,
training institutions but also enterprises themselves. The article addresses some of the basic issues such
as: The context of the Fourth Industrial Revolution; Vietnam's human resources situation during the digi-
tization period; Strategic solutions to develop human resources to build business brand in the digital era.
Keywords: branding, human resources development, digital era.
điều tra của VCCI (Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam), công nghệ số có vai trò và tác
động lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp.
Hiện có tới trên 95% doanh nghiệp Việt Nam đã sử
dụng Internet. Những doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ thông tin hiệu quả thường dễ tiếp cận thông
tin chính sách, pháp luật hơn, thực hiện thủ tục
hành chính nhanh chóng hơn và quan trọng là có
kết quả kinh doanh tốt hơn. Đối với các cơ quan nhà
nước trong quá trình cung cấp dịch vụ hành chính
công, nếu áp dụng công nghệ thông tin tốt, cũng
cung cấp thông tin tới doanh nghiệp nhanh chóng
và thuận lợi hơn, với thời gian thực hiện thủ tục
hành chính cho doanh nghiệp được rút ngắn.
Có thể thấy, thời đại công nghệ số đã làm thay
đổi phương thức kinh doanh truyền thống sang
phương thức kinh doanh mới. Dự kiến, trong vài
năm tới, con số người Việt thường xuyên tiếp cận
Internet có thể tăng lên 70% dân số (hiện tại là
45%), trong bối cảnh đó, công nghệ số sẽ giúp
doanh nghiệp ngày càng dễ dàng hơn trong việc tiếp
cận với khách hàng và thị trường trên toàn thế giới.
2. Bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
và sức ép đối với nguồn nhân lực Việt Nam
Nhìn lại lịch sử, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII chứng
kiến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, sự
ra đời của động cơ hơi nước và năng lượng nước đã
thay đổi diện mạo nền công nghiệp thế giới với việc
cơ giới hoá sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí.
Giai đoạn sau của thế kỷ XIX là sự bùng nổ của
kỹ thuật điện, dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng
loạt, đánh dấu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
hai. Giữa thế kỷ XIX là thời điểm bắt đầu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ ba, công nghệ thông
tin bắt đầu bùng nổ nhanh chóng và quá trình sản
xuất được tự động hóa dựa trên hệ thống quản lý
máy tính, được xúc tác bởi sự phát triển của chất
bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet.
Thời điểm hiện tại là giai đoạn đầu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cuộc cách mạng này được hình thành trên nền
tảng thành tựu vượt bậc của cuộc cách mạng thứ ba,
xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật
số và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí
tuệ nhân tạo, tự động hóa - robot, và Internet of
Things (IoT).
Sự dịch chuyển khoa học kỹ thuật này mới bắt
đầu và rục rịch chuyển mình, nhưng sẽ phức tạp và
phạm vi ảnh hưởng vô cùng sâu rộng, sẽ phát triển
và lan truyền với tốc độ chưa từng có tiền lệ so với
ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được tạo
nên bởi sự hội tụ của các công nghệ mới chủ yếu
như IoT - Internet kết nối vạn vật, robot cao cấp,
công nghệ in ấn 3D, điện toán đám mây, công nghệ
di động không dây, trí tuệ thông minh nhân tạo,
công nghệ nano, khoa học về vật liệu tiên tiến, lưu
trữ năng lượng và tin học lượng tử...
* Trường Đại học Thương mại; Email: truong2203@gmail.com
Ngày nhận bài: 5/5/2018; ngày thẩm định 10/7/2018; ngày duyệt đăng: 15/9/2018
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau:
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ,
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh;
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano;
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông
minh; E-Learning...
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản.
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường.
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa.
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại
học Việt Nam
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người
học với nhau và với giảng viên.
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
.+2$+&9j&1*1*+
ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
2 SỐ 4 (2018)
1. Mở đầu
Với 25 tỷ thiết bị kết nối Internet; 3,3 tỷ cư dân
mạng xã hội và online trung bình 2 giờ mỗi ngày;
1.200 tỷ video trên Youtube và cần 3.400 năm để
một người xem hết số video này... Thế giới số,
không gian số, khách hàng số, hành vi tiêu dùng số
đã đặt ra nhu cầu, xu hướng tự nhiên cho các doanh
nghiệp muốn xây dựng và quảng bá thương hiệu
của mình, đem sản phẩm đến gần nhất với người
tiêu dùng thì không thể bỏ qua hoạt động liên quan
đến số hóa. Theo báo cáo của Google & Tamasek,
thị trường quảng cáo trực tuyến Việt Nam đạt 330
triệu USD năm 2015 và ước đạt con số 2 tỷ USD
vào năm 2025. Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam cũng
vừa công bố, nước ta hiện nay có khoảng 7.000
công ty quảng cáo, nhân lực đáp ứng nhu cầu cho
ngành này ít nhất là 70.000 lao động.
Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, khu
vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, khi chiếm
đến 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên
cả nước (doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh
nghiệp nhỏ chiếm 29,6% và còn lại 68,2% là siêu
nhỏ), sử dụng tới trên 50% lao động xã hội, đóng
góp trên 40% GDP, 31% xuất khẩu, 29% các khoản
thu vào ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra hàng
triệu việc làm mỗi năm, huy động các nguồn lực xã
hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo...
Liên quan đến công nghệ số, nền kinh tế Việt
Nam đang đứng trước sự tích hợp hai làn sóng đổi
mới là cải cách thể chế và làn sóng công nghệ số.
Nếu tận dụng tốt cơ hội này, cơ hội phát triển kinh
tế Việt Nam nói chung và phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa nói riêng sẽ tăng theo cấp số nhân. Theo
Hình 2. Các lợi ích từ E-Learning
Nguồn: Tác giả tự xây dựng
Các công nghệ sẽ mang tính liên ngành sâu rộng,
sức mạnh tiếp cận và xử lý số lượng lớn các yêu cầu
từ khách hàng tại cùng một thời điểm, dung lượng
lưu trữ dữ liệu không giới hạn, những bước tiến ấn
tượng trong lĩnh vực tương tác giữa máy móc và thế
giới sinh học, trí thông minh nhân tạo, và từ đó sẽ là
nền tảng để xuất hiện các mô hình kinh doanh mới.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra
sản phẩm theo yêu cầu cụ thể của khách hàng với
chi phí phù hợp và xây dựng hệ thống sản xuất hàng
loạt có khả năng linh hoạt điều chỉnh theo thay đổi
của nhu cầu xã hội, tạo ra lợi ích và tối ưu nhất cho
các bên liên quan. Chúng ta có thể nhìn nhận tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
trên một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, đối với các nhà sản xuất, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 chứng kiến sự du nhập
của các công nghệ tiên tiến giúp tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ mới, tăng hiệu quả sản xuất, thúc
đẩy sáng tạo và phát triển của nền công nghiệp
trong dài hạn. Chi phí vận chuyển và liên lạc giảm,
dây chuyền cung cấp hiệu quả hơn, chi phí thương
mại được giảm thiểu.
điều tra của VCCI (Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam), công nghệ số có vai trò và tác
động lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp.
Hiện có tới trên 95% doanh nghiệp Việt Nam đã sử
dụng Internet. Những doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ thông tin hiệu quả thường dễ tiếp cận thông
tin chính sách, pháp luật hơn, thực hiện thủ tục
hành chính nhanh chóng hơn và quan trọng là có
kết quả kinh doanh tốt hơn. Đối với các cơ quan nhà
nước trong quá trình cung cấp dịch vụ hành chính
công, nếu áp dụng công nghệ thông tin tốt, cũng
cung cấp thông tin tới doanh nghiệp nhanh chóng
và thuận lợi hơn, với thời gian thực hiện thủ tục
hành chính cho doanh nghiệp được rút ngắn.
Có thể thấy, thời đại công nghệ số đã làm thay
đổi phương thức kinh doanh truyền thống sang
phương thức kinh doanh mới. Dự kiến, trong vài
năm tới, con số người Việt thường xuyên tiếp cận
Internet có thể tăng lên 70% dân số (hiện tại là
45%), trong bối cảnh đó, công nghệ số sẽ giúp
doanh nghiệp ngày càng dễ dàng hơn trong việc tiếp
cận với khách hàng và thị trường trên toàn thế giới.
2. Bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
và sức ép đối với nguồn nhân lực Việt Nam
Nhìn lại lịch sử, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII chứng
kiến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, sự
ra đời của động cơ hơi nước và năng lượng nước đã
thay đổi diện mạo nền công nghiệp thế giới với việc
cơ giới hoá sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí.
Giai đoạn sau của thế kỷ XIX là sự bùng nổ của
kỹ thuật điện, dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng
loạt, đánh dấu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
hai. Giữa thế kỷ XIX là thời điểm bắt đầu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ ba, công nghệ thông
tin bắt đầu bùng nổ nhanh chóng và quá trình sản
xuất được tự động hóa dựa trên hệ thống quản lý
máy tính, được xúc tác bởi sự phát triển của chất
bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet.
Thời điểm hiện tại là giai đoạn đầu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cuộc cách mạng này được hình thành trên nền
tảng thành tựu vượt bậc của cuộc cách mạng thứ ba,
xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật
số và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí
tuệ nhân tạo, tự động hóa - robot, và Internet of
Things (IoT).
Sự dịch chuyển khoa học kỹ thuật này mới bắt
đầu và rục rịch chuyển mình, nhưng sẽ phức tạp và
phạm vi ảnh hưởng vô cùng sâu rộng, sẽ phát triển
và lan truyền với tốc độ chưa từng có tiền lệ so với
ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được tạo
nên bởi sự hội tụ của các công nghệ mới chủ yếu
như IoT - Internet kết nối vạn vật, robot cao cấp,
công nghệ in ấn 3D, điện toán đám mây, công nghệ
di động không dây, trí tuệ thông minh nhân tạo,
công nghệ nano, khoa học về vật liệu tiên tiến, lưu
trữ năng lượng và tin học lượng tử...
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau:
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ,
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh;
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano;
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông
minh; E-Learning...
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ s