Sách vởkinh tếvà các bài học từviệc thi hành chính sách công nghiệp nhấn mạnh rằng
một chính sách hoặc chiến lược công nghiệp hiệu quảcần phải có những mục tiêu, lý do,
và phạm vi được xác định rõ ràng. Ngân hàng Thếgiới đã đưa ra một định nghĩa có thể
chấp nhận được của chính sách công nghiệp là “các nỗlực của chính phủnhằm thay đổi
cơcấu công nghiệp đểthúc đẩy tăng trưởng dựa trên năng suất” (World Bank 1992)
Định nghĩa này là hữu ích vì nó tập trung vào mục tiêu tăng trưởng năng suất yếu tốtrong
toàn bộnền kinh tếchứkhông phải chỉ đơn giản thay đổi cơcấu sản phẩm đầu ra của các
ngành sản xuất hay chăm lo đến một vài khu vực nhất định. Chính sách công nghiệp
không chỉgiới hạn ởkhu vực công nghiệp chếtạo, mà còn bao gồm cảhai khu vực làm
tăng giá trịcho hàng công nghiệp chếtạo là các ngành chếbiến nông khoáng sản và dịch
vụ.
Trong thực tế, chính sách công nghiệp thường có nhiều mục tiêu, bao gồm công ăn việc
làm trong ngắn hạn, gia tăng sản lượng, phân phối các hoạt động kinh tếcông bằng hơn
giữa các vùng, và nâng cao năng lực công nghệ. Thường còn có cảcác mục tiêu phi kinh
tế, nhưniềm tựhào và uy tín của dân tộc, nhu cầu thúc đẩy các ngành công nghiệp nội địa
được coi là “chiến lược”. Những mục tiêu đó còn lộn xộn rối rắm đến mức nhiều nước
đang phát triển lo lắng vềquyền sởhữu của người nước ngoài và và tác động có thểcó
của nó đến năng lực trong nước.
2
Điều quan trọng là phải theo đuổi một chính sách công
nghiệp có các mục tiêu giới hạn và được xác định rõ ràng, bởi vì có thểkhông có đủcác
công cụchính sách để đáp ứng quá nhiều mục tiêu khác nhau. Hơn nữa, các mục tiêu
khác nhau có thểkhông phù hợp với nhau.
16 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách công nghiệp và các nước đang phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP
VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 1 Bin dịch: Hoàng Nhị
CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP
VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Mari Pangestu
Phát triển công nghiệp là một bộ phận không thể thiếu của chiến lược tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các nước đều theo đuổi một loại chính sách công nghiệp nào đó, mặc dù mục tiêu
và cách tiếp cận của họ có thể khác hẳn nhau, và có thể thay đổi theo thời gian. Với môi
trường trong nước và toàn cầu đang thay đổi hiện nay, các nước đang phát triển cần đánh
giá lại các lựa chọn đang mở ra cho họ để có thể thực hiện một chính sách công nghiệp
hóa hiệu quả và phù hợp với WTO.
Mục tiêu và phạm vi của chính sách công nghiệp
Sách vở kinh tế và các bài học từ việc thi hành chính sách công nghiệp nhấn mạnh rằng
một chính sách hoặc chiến lược công nghiệp hiệu quả cần phải có những mục tiêu, lý do,
và phạm vi được xác định rõ ràng. Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một định nghĩa có thể
chấp nhận được của chính sách công nghiệp là “các nỗ lực của chính phủ nhằm thay đổi
cơ cấu công nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng dựa trên năng suất” (World Bank 1992)1.
Định nghĩa này là hữu ích vì nó tập trung vào mục tiêu tăng trưởng năng suất yếu tố trong
toàn bộ nền kinh tế chứ không phải chỉ đơn giản thay đổi cơ cấu sản phẩm đầu ra của các
ngành sản xuất hay chăm lo đến một vài khu vực nhất định. Chính sách công nghiệp
không chỉ giới hạn ở khu vực công nghiệp chế tạo, mà còn bao gồm cả hai khu vực làm
tăng giá trị cho hàng công nghiệp chế tạo là các ngành chế biến nông khoáng sản và dịch
vụ.
Trong thực tế, chính sách công nghiệp thường có nhiều mục tiêu, bao gồm công ăn việc
làm trong ngắn hạn, gia tăng sản lượng, phân phối các hoạt động kinh tế công bằng hơn
giữa các vùng, và nâng cao năng lực công nghệ. Thường còn có cả các mục tiêu phi kinh
tế, như niềm tự hào và uy tín của dân tộc, nhu cầu thúc đẩy các ngành công nghiệp nội địa
được coi là “chiến lược”. Những mục tiêu đó còn lộn xộn rối rắm đến mức nhiều nước
đang phát triển lo lắng về quyền sở hữu của người nước ngoài và và tác động có thể có
của nó đến năng lực trong nước.2 Điều quan trọng là phải theo đuổi một chính sách công
nghiệp có các mục tiêu giới hạn và được xác định rõ ràng, bởi vì có thể không có đủ các
công cụ chính sách để đáp ứng quá nhiều mục tiêu khác nhau. Hơn nữa, các mục tiêu
khác nhau có thể không phù hợp với nhau.
Biện minh cho chính sách công nghiệp
Lập luận kinh tế ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ nhằm nâng cao năng suất lao
động trong dài hạn được xây dựng dựa trên nhu cầu điều chỉnh các thất bại thị trường
(được cho là đang tồn tại) xuất phát từ các ngoại tác, sự thiếu vắng của các thị trường,
hoặc các thất bại khác, trong khi có tính đến các tác động phụ có thể có đến các ngành
khác trong nền kinh tế. Lập luận kinh tế truyền thống ủng hộ việc chính phủ trợ giúp cho
một số ngành nào đó là để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ.3 Bảo hộ chống hàng
nhập khẩu dưới dạng thuế quan, hoặc trợ cấp theo sản lượng của doanh nghiệp (hai công
cụ có tác động tương đương đối với sản lượng của một ngành cụ thể nào đó) được biện
minh trên cơ sở ngoại tác động (dynamic externality), ví dụ như học hỏi qua công việc
(learning by doing) hoặc đào tạo tại chỗ (on-the-job training) là những điều giúp làm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 2 Bin dịch: Hoàng Nhị
giảm chi phí. Theo lập luận này, chỉ nên trợ giúp những quá trình học hỏi diễn ra bên
ngoài doanh nghiệp, bởi vì doanh nghiệp không thể chiếm được đặc quyền hoặc lợi nhuận
từ việc đào tạo này nên sẽ không đầu tư cho nó.
Có những điều kiện quan trọng giới hạn lập luận về ngành công nghiệp non trẻ. Thứ nhất,
mức độ giảm chi phí trong tương lai cần phải đủ để bù đắp chi phí cao hơn trong giai
đoạn được hỗ trợ. Thứ hai, không nên hỗ trợ bao trùm cho toàn bộ các doanh nghiệp
trong một ngành; sự tồn tại của ngoại tác và việc hỗ trợ cần phải được gắn với kết quả
hoạt động của người nhận hỗ trợ (ví dụ, hiệu quả phải cao hơn hoặc chi phí phải giảm đi),
và khoản hỗ trợ phải giảm dần theo thời gian. Thứ ba, công cụ thích hợp để tạo ra ngoại
tác tích cực từ việc mở rộng công nghiệp nội địa có thể không phải là thuế quan hay trợ
cấp theo sản lượng. Một chính sách thích hợp hơn là: trợ cấp theo quá trình, theo việc
làm, hoặc sản phẩm mà có thể giúp tạo ra kiến thức hay học hỏi.
Tính thích hợp của các công cụ chính sách tuân theo một chủ đề chung hơn trong lý
thuyết về sự can thiệp của chính phủ (xem Bhagwati 1971; Corden 1974). Mỗi ngoại tác
hoặc thất bại thị trường đòi hỏi phải có loại trợ cấp thuế dựa trên biến số đã tạo ra ngoại
tác hoặc thất bại thị trường đó, và tỉ lệ trợ cấp thuế phải là tỉ lệ giúp tạo được hiệu quả tối
ưu. Bất kỳ một trợ cấp thuế nào khác với trợ cấp thuế tối ưu sẽ tạo ra điều mà Corden
(1974) gọi là những tác động phụ, những tác động sẽ áp đặt chi phí không mong muốn ở
một nơi khác trong nền kinh tế.
Cũng cần lưu ý đến tác động của sự can thiệp vào một ngành đến toàn bộ nền kinh tế.
Một cách để làm điều này là chú ý đến tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng, một đại lượng tính đến tác
động của thuế quan lên cả đầu vào và đầu ra. Ví dụ, thuế quan đánh vào một đầu vào sẽ
làm giảm tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng đối với người sử dụng ở khâu sau (xem Hộp 17.1).
Một lập luận khác ủng hộ sự can thiệp của chính phủ – cái gọi là lập luận tốt thứ nhì đối
với thuế quan hoặc trợ cấp cho một số hàng hóa – liên quan đến sự hiện hữu của các biến
dạng “không thể loại bỏ” dưới dạng thuế quan hoặc các hình thức bảo hộ chống hàng
nhập khẩu khác.4 Trong thực tiễn, sự can thiệp để sửa chữa các biến dạng này lại tạo ra
một số vấn đề. Thứ nhất, không rõ tại sao chính sách nên làm nhất (tốt nhất) để loại bỏ
các biến dạng lại không thể được thực hiện. Thứ hai, để xác định chính sách tốt thứ nhì
một cách chính xác thì cần phải có hiểu biết hoàn hảo về mọi khía cạnh của nền kinh tế
sao cho có thể biết được tác động ròng của sự can thiệp. Đòi hỏi này là không thực tế.
Nếu cứ thực hiện các chính sách can thiệp tốt thứ ba trong khi chưa biết giá trị thực của
một số thông số về hành vi thì có thể dẫn đến các biến dạng nặng hơn và làm giảm phúc
lợi.
Các lý do khác biện minh cho chính sách công nghiệp được dựa trên lập luận về phát triển
công nghệ. Theo lập luận này, chính sách phù hợp là can thiệp dựa trên công nghệ chứ
không phải dựa trên sản lượng như các loại trợ cấp, hoặc hỗ trợ phát triển công nghệ và
các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - một trong những phương
tiện quan trọng để chuyển giao công nghệ. (Xem Chương 19 của Bora và Chương 34 của
Saggi trong cuốn sách này.)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 3 Bin dịch: Hoàng Nhị
HP 17.1 T L BO H DANH NGHA VÀ HIU DNG
Tỉ lệ bảo hộ danh nghĩa (NRP) có thể được định nghĩa như:
*
*
P
PPNRP −=
với P là giá trong nước của hàng hóa đã bao gồm thuế nhập khẩu, P* là giá khi có tự do
ngoại thương. Vì trong thực tế không thể thấy được P*, hầu hết các nghiên cứu thực
nghiệm đều lấy giá thế giới để thay cho P*.
Tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng (EPR) có thể được định nghĩa như tỉ lệ tăng thêm của gía trị gia
tăng trên một đơn vị hàng hóa của một sản phẩm được sản xuất trong nước so với giá trị
gia tăng khi có tự do ngoại thương (không có bảo hộ). Độ lớn của ERP không chỉ phụ
thuộc vào thuế quan danh nghĩa đánh lên sản phẩm cuối cùng mà ta đang xem xét, mà
còn phụ thuộc vào thuế quan đánh lên các đầu vào được sử dụng và tầm quan trọng của
các đầu vào đó trong giá trị của sản phẩm cuối cùng. Một công thức đơn giản để tính ERP
là:
*
*
V
VVERP −=
với V là giá trị gia tăng trong nước trên mỗi đơn vị của hàng hóa cuối cùng (đã bao gồm
thuế nhập khẩu đánh lên loại hàng đó và lên các đầu vào của nó), và V* là giá trị gia tăng
khi có tự do ngoại thương. Giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm được xác định bằng
cách lấy tổng giá trị của đầu ra trừ đi chi phí của các đầu vào được sử dụng trong quá
trình sản xuất: V=tfPf-tiPiX, với tf và tk bằng 1 cộng với thuế quan tương ứng trên sản phẩm
cuối cùng và trên các đầu vào; Pf và Pi là các mức giá, và X là lượng đầu vào sử dụng để
sản xuất một đơn vị của hàng hóa cuối cùng. Giá trị gia tăng tại giá tự do thương mại cũng
được xác định tương tự như vậy, nhưng lúc này không có thuế (trị giá của t là 1).
Ví dụ, giả sử một tấn thép có giá là US$1,000 trên thị trường thế giới. Để sản xuất nó, một
nhà máy cần phải mua 1 tấn quặng sắt tại giá thế giới là US$600. Để đơn giản, giả sử
không cần thêm gì khác trong quá trình sản xuất thép. Trong trường hợp đó, trị giá gia
tăng của một tấn thép tại nhà máy sẽ là US$400. Nếu thuế suất 20% được đánh lên thép
nhập khẩu, và không có thuế đánh lên quặng sắt, thì tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng sẽ là:
,5,1
400
6001200 =− hay 50%.
Trong ví dụ này, ERP cao hơn gấp đôi tỉ lệ 20% NRP đánh lên thép nhập khẩu. Nếu không
có thuế đánh lên thép nhập khẩu nhưng một khoản thuế danh nghĩa 33% được đánh lên
quặng sắt nhập khẩu, ERP sẽ là:
5,0
400
)200600(1000 =+− , hay –50%.
Ví dụ này cho thấy rằng NRP= 0 không nhất thiết có nghĩa là thương mại không bị biến
dạng. Một ví dụ khác, giả sử hạt ca cao chiếm 95% chi phí sản xuất của bơ ca cao. Đánh
thuế 5% danh nghĩa lên bơ ca cao đồng nghĩa với việc bảo hộ 100% cho ngành sản xuất
bơ ca cao.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 4 Bin dịch: Hoàng Nhị
Các công cụ của chính sách công nghiệp
Trong thực tế, nhân danh chính sách công nghiệp, các quốc gia đã sử dụng nhiều công cụ
khác nhau. Chúng có thể được phân loại thành các can thiệp bên ngoài, can thiệp vào thị
trường sản phẩm, và vào thị trường yếu tố sản xuất.
Các can thiệp vào thị trường bên ngoài bao gồm việc bảo vệ các ngành sản xuất trong
nước khỏi sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu bằng cách sử dụng các công cụ như thuế
nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, các chương trình nội địa hóa, cũng như các
biện pháp khuyến khích xuất khẩu để hỗ trợ các ngành sản xuất đuổi kịp và thâm nhập
vào các thị trường mới. Các công cụ khuyến khích xuất khẩu phổ biến là trợ cấp xuất
khẩu, các khu khuyến khích xuất khẩu, và tín dụng ưu đãi (đôi khi gắn với các mục tiêu
xuất khẩu).
Các can thiệp vào thị trường sản phẩm để khuyến khích cạnh tranh trong thị trường nội
địa bao gồm chính sách cạnh tranh (nhằm bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp nội địa và nước ngoài), và các luật lệ về gia nhập thị trường nội địa.
Các can thiệp vào thị trường yếu tố sản xuất bao gồm các chính sách như đặt ra yêu cầu
về kết quả hoạt động và các hạn chế đối với FDI nhằm tác động đến hoạt động của các
công ty do người nước ngoài làm chủ sao cho nước sở tại có thể thu được lợi ích ròng từ
FDI (UNCTAD 1999a). Các hình thức can thiệp vào thị trường yếu tố trong thị trường
vốn và khu vực tài chính là nhằm sửa chữa các khuyết tật của thị trường tài chính, khuyến
khích các ngành công nghiệp non trẻ, và bảo vệ hoặc loại bỏ dần các ngành đang suy
giảm. Những biện pháp này bao gồm việc thành lập các định chế tài chính phát triển, trợ
cấp vốn trực tiếp cho một số doanh nghiệp công nghiệp chọn lọc, trợ cấp vốn và hỗ trợ
vốn cho các ngành đang suy giảm hoặc đã trưởng thành, ưu tiên tiếp cận nguồn tín dụng
(thường với lãi suất có trợ cấp) bằng cách yêu cầu các định chế tài chính cho một số
ngành hoặc một số loại công ty được vay. Việc can thiệp vào thị trường lao động có thể
có các mục tiêu về hiệu quả và công bằng. Mục tiêu thứ nhất liên quan đến việc phát triển
nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo. Mục tiêu thứ hai bao gồm các yêu cầu về
tiền lương tối thiểu và các hệ thống lưới an toàn xã hội.
Hộp 17.2 cho thấy ví dụ về các loại công cụ chính sách công nghiệp mà Hàn Quốc và
Nhật bản đã sử dụng trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa của họ.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 5 Bin dịch: Hoàng Nhị
Sự tiến hóa của chính sách công nghiệp
Cách tiếp cận đối với phát triển công nghiệp và các loại công cụ được sử dụng đã tiến hóa
theo thời gian do các thay đổi trong hệ thống quan niệm về phát triển cũng như trong môi
trường bên ngoài. Để có tính cụ thể, phần này sẽ tập trung vào các ví dụ từ Đông Á,
nhưng hầu hết những điều được đề cập đến đều có thể áp dụng được cho tất cả các nước
đang phát triển.
HỘP 17.2. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ XUẤT
KHẨU ĐƯỢC SỬ DỤNG TẠI HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN
Khuyn khích xut khu và hn ch nhp khu
• Hạn chế nhập khẩu, cả tổng quát và cụ thể
• Ưu tiên trong việc xúc tiến xuất khẩu cho một số ngành cụ thể, và một số doanh
nghiệp cụ thể trong một số trường hợp,
• Đề ra mục tiêu xuất khẩu cho các doanh nghiệp cụ thể như điều kiện để được trợ
cấp (Hàn Quốc)
• Trợ cấp lãi suất và tín dụng, cung cấp ngoại hối cho các doanh nghiệp được ưu đãi
đã đáp ứng được các mục tiêu xuất khẩu
• Xúc tiến xuất khẩu nói chung qua JETRO (Nhật bản) và KOTRA (Hàn Quốc)
• Cung cấp cơ sở hạ tầng, kể cả vốn nhân lực, để hỗ trợ xuất khẩu
• Miễn giảm thuế cho các đầu vào nhập khẩu và cho các khoản chi cho nghiên cứu và
phát triển
• Cho phép các tập đoàn được ưu đãi được nhập khẩu vốn và công nghệ nước ngoài,
cũng như huy động nguồn vốn rẻ hơn trên thị trường quốc tế
Can thip vào th trng sn phm và th trng yu t
• Nới lỏng chính sách cạnh tranh, sử dụng rộng rãi hình thức cartel.
• Chính phủ tạo ra và khuyến khích các tập đoàn lớn (Hàn Quốc)
• Cắt giảm thuế cho các tập đoàn lớn để tăng đầu tư
• Khuyến khích mối quan hệ gần gũi, lâu dài giữa ngành tài chính và công nghiệp (là
điều quan trọng quyết định cho việc thi hành chính sách công nghiệp)
• Đàn áp lao động để bảo đảm sự an bình về lao động trong giai đoạn thay đổi cơ cấu
(Hàn Quốc)
• Thành lập các ngành công nghiệp quốc doanh để nâng cao mức phát triển công
nghiệp (Hàn Quốc)
• Có sự hướng dẫn rộng khắp của các cơ quan nhà nước.
Nguồn: Phỏng theo Singh (1996)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 6 Bin dịch: Hoàng Nhị
BẢNG 17.1 SỰ TIẾN HÓA CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP Ở ĐÔNG Á (THẬP
KỶ 1950 – 1990)
Nền kinh
tế
1950s 1960s 1970s 1980s 1990s
Trung
Quốc
1965-76
Quốc
phòng/Công
nghiệp (công
nghiệp hóa
thiên về CN
nặng)
1977-78
Nhập khẩu
nhà máy
1980s
Tự do hóa vùng
duyên hải (các
ngành công
nghiệp nhẹ)
1990s
Cơ sở hạ tầng
Công nghệ cao
Hồng Kông
(Trung
Quốc)
1950-
EO (tự do kinh doanh, hỗ trợ về giáo dục, cơ
sở hạ tầng, và thể chế)
1979-
Tăng cường hỗ
trợ về thể chế cho
công nghiệp
1990s
Nâng cấp sự hỗ
trợ cho công
nghệ
Indonesia 1967-73
On định
Bắt đầu IS
1974-85
IS mạnh
1986-
Tự do hóa
EO
Nhật bản 1950-58
IS
1959-
EO
1967-
Tự do hóa
Giữa 1980s
Giảm bớt luật lệ
Quốc tế hóa
Hàn Quốc 1961-72
EO
1973-79
EO
IS (công
nghiệp nặng)
1980
Tự do hóa
(thương mại, đầu
tư, tài chính)
1990s
Giảm bớt luật lệ
từ giữa 1980s
(hướng về phát
minh đổi mới)
Malaysia 1950-70
IS vừa phải
Thêm EO
1971-85
Tiếp tục IS
EO
1986-
Tự do hóa
Philippines 1950-
IS
Tiếp tục IS 1980s
Tự do hóa
(bất ổn chính trị)
1990s
Tiếp tục tự do
hóa (tăng
cường ổn định
chính trị)
Singapore 1950s
IS (khi vẫn
còn là một
bộ phận của
Malysia)
1960s – 1980s
EO
1990s
Độc lập chiến
lược (công nghệ
và dịch vụ cao)
Khu vực hóa
Đài Loan
(Trung
Quốc)
1953-57
IS
1958-80
EO
1986-
Tự do hóa
Thái Lan 1961-71
IS
1971-86
IS (hàng hóa phục vụ sản xuất,
bắt đầu từ 1981)
1986-
EO
Các ngành thâm
dụng công nghệ
EO một phần
Ghi chú: IS: Thay thế nhập khẩu, EO: Hướng về xuất khẩu
Nguồn: Masuyama, Vanderbrink, và Chia (1997): bảng 1.1.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 7 Bin dịch: Hoàng Nhị
Chính sách công nghiệp ở Đông Á đã tiến hóa dần trong ba thập kỷ qua (Bảng 17.1) khi
chính sách thay thế nhập khẩu nhường chỗ cho chính sách hướng về xuất khẩu, và sau đó
là chính sách phát triển cơ sở hạ tầng dựa trên tri thức. Sự chuyển dịch trong cách tiếp cận
và các công cụ chính sách đã chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong như quy mô thị
trường, nhu cầu phải điều chỉnh để thích nghi với các cú sốc bất lợi, sự kém hiệu quả của
các chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, và nhu cầu phải thu hút FDI để có
được công nghệ và tiếp cận thị trường. Chính sách còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố
bên ngoài như cạnh tranh ngày càng gia tăng, công nghệ thay đổi, áp lực từ các đối tác
thương mại lớn buộc phải trở thành các bên tham gia ký kết các luật lệ của GATT, các
luật lệ đa phương được đàm phán trong khuôn khổ WTO, và cuộc khủng hoảng tài chính
nổ ra năm 1997.
Các thay đổi nhanh chóng trong công nghệ giao thông, liên lạc, sản xuất, tiếp thị, phân
phối, cũng như các quá trình quản lý, đã đẩy nhanh tốc độ toàn cầu hóa và làm giảm lợi
thế so sánh truyền thống trong sản xuất hàng loạt. Việc sản xuất các bộ phận và chi tiết,
cũng như chính hàng hóa cuối cùng, ngày càng được thuê ngoài hoặc được rải ra nhiều
địa điểm khác nhau trên cơ sở cân nhắc về chi phí và thị trường. Việc phi tập trung hóa
sản xuất và các quá trình sản xuất diễn ra trong thập kỷ 1990 ở Đông Á là một ví dụ mạnh
mẽ về sự hội nhập của khu vực này qua các mối liên kết thương mại và đầu tư. Sự phát
triển của công nghệ sẽ tiếp tục là một nguồn áp lực quan trọng buộc các ngành công
nghiệp phải tiếp tục tái cơ cấu. Sự suy giảm trong tăng trưởng xuất khẩu xảy ra trước khi
có khủng hoảng, một phần là do các nhân tố về cơ cấu như khả năng cạnh tranh sút giảm
và mức tăng trưởng năng suất thấp, còn chỉ ra nhu cầu phải tái cấu trúc khu vực công
nghiệp. Thách thức chính đối với nhiều quốc gia đang phát triển ở Đông Á là làm sao duy
trì được lợi thế so sánh truyền thống (dựa trên lao động rẻ tiền tay nghề thấp và nguồn tài
nguyên) trong khi phải xây dựng các nguồn lợi thế so sánh mới và “trưởng thành dần”
trong các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, thể hiện công nghệ và nguồn vốn con
người cao hơn.
Có nhiều giải pháp về chính sách thích hợp để giải quyết các vấn đề về cơ cấu mà các
quốc gia Đông Á đang gặp phải, và nhiều chính sách đã được các chính phủ áp dụng. Một
là duy trì sự cạnh tranh trong thị trường nội địa. Hàng nhập khẩu có thể tác động đến năng
suất qua công nghệ được thể hiện trong nó, và có thể là một cách hiệu quả để đồng hóa
các kỹ thuật và kiến thức mới (xem Chương 34 của Saggi trong cuốn sách này). Các nhân
tố khác có thể thúc đẩy xuất khẩu là: khuyến khích FDI và tham gia vào mạng lưới sản
xuất quốc tế; chính sách vĩ mô phù hợp; cơ cấu hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ hiệu quả;
các chính sách cải thiện vốn con người và năng lực công nghệ, ví dụ như hoạt động
nghiên cứu và phát triển, giáo dục, cũng như tạo ra các cụm công nghiệp. N