Chính sách công ở Việt Nam: Thành tựu và một số vấn đề đặt ra

TÓM TẮT Bài viết tập trung phân tích, đánh giá những thành tựu và tồn tại, thách thức có tính cấp bách đã và đang đặt ra của chính sách công cả trên phương diện khoa học và thực tiễn vận hành của nó ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số định hướng để tiếp tục phát triển ngành khoa học chính sách công đầy tiềm năng, phát huy vai trò to lớn của nó trong quá trình quản lý, kiến tạo phát triển quốc gia, địa phương.

pdf12 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách công ở Việt Nam: Thành tựu và một số vấn đề đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
92 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM: THÀNH TỰU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Bùi Nghĩa*, Nguyễn Thị Hoa**, Nguyễn Hữu Hoàng*** TÓM TẮT Bài viết tập trung phân tích, đánh giá những thành tựu và tồn tại, thách thức có tính cấp bách đã và đang đặt ra của chính sách công cả trên phương diện khoa học và thực tiễn vận hành của nó ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số định hướng để tiếp tục phát triển ngành khoa học chính sách công đầy tiềm nĕng, phát huy vai trò to lớn của nó trong quá trình quản lý, kiến tạo phát triển quốc gia, địa phương. Từ khóa: Chính sách công, thành tựu, Việt Nam, vấn đề cấp bách. PUBLIC POLICY IN VIETNAM: ACHIEVEMENTS AND SOME ISSUES PUT IN THE DEVELOPMENT ORIENTATION FOR THE NEXT TIME Abstract: This paper focus on anylizing, appreciatiing the basic echievements and threats also some problems in the past and now of the public policy that are both science aspect and the its reality movement in Vietnam. From that, the paper gives some solutions to encourage the empowerful this science and the role of this in the management proccess and creates the development of the nation, local authorities. Key words: Public policy, achievement, Vietnam, urgency problems. 1 Vũ Cao Đàm (2011), Giáo trình Khoa học chính sách, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, HN, tr.11. 2 Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công - Những vấn đề cơ bản, Nxb. CTQG-ST, HN, tr.7 1. LƯỢC SỬ CHÍNH SÁCH CÔNG, KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CÔNG VIỆT NAM Theo dòng chảy lịch sử, sự xuất hiện của chính sách công với tư cách là công cụ, phương thức hoạt động phục vụ giới chính trị giải quyết các vấn đề của quốc gia đã xuất hiện cùng với nền dân chủ Hi Lạp. Ở góc độ khoa học, chính sách công là một ngành khoa học, tuy có tuổi đời khá trẻ so với nhiều ngành khoa học khác như triết học, chính trị học, xã hội học, song chính sách công đã có lịch sử tương đối sáng tỏ. Các nhà nghiên cứu và nhiều tài liệu trên thế giới đều thống nhất cho rằng, chính sách công được nhìn nhận với tư cách là ngành khoa học sau thế chiến thứ II (1945). Khi ấy, ngành khoa học này mới ở giai đoạn “pre-paradigamic science”1 (“phôi thai”, “bất định”) và phát triển mạnh chủ yếu ở Bắc Mỹ và châu Âu với mục tiêu nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước và công dân2. Nĕm 1951, tác phẩm “The Policy Orientation, the policy science: Recent * TS. Giảng viên Học viện Chính trị khu vực II, ** ThS. Giảng viên Học viện Chính trị khu vực II, *** TS. Giảng viên trường Đại học Thủ Dầu Một 93 Chính sách công ở Việt Nam... Development in scope and method”1 của Daniel Lerner và Harold D. Lasswell được xuất bản đã đánh dấu bước trưởng thành mới khi khoa học chính sách chính thức tách khỏi nhiều ngành khoa học khác như chính trị, hành chính công, tâm lí học, luật học, xã hội học, trở thành ngành khoa học thực thụ. Ở Việt Nam, cùng với dòng chảy lịch sử 1 Trong tác phẩm “The Policy Orientation, the policy science: Recent Development in scope and method” (Daniel Lerner, H.D. Lasswell, 1951) đã chỉ ra 03 đặc trưng của khoa học chính sách bấy giờ là: (i). định hướng vấn đề cần giải quyết, (ii). đa ngành; (iii). quy chuẩn giá trị và phương pháp nghiên cứu chủ yếu của ngành khoa học này - “phương pháp xem xét những gì nhà nước thực sự làm cho xã hội”. 2 Theo Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim, 2005:17), lịch sử nước ta tính từ thời họ Hồng Bàng gắn với nhà nước Vĕn Lang (2879 - 258 TCN) đến nay đã hơn 4000 nĕm. 3 Sách viết có đoạn: “Hùng Vương thứ 8 có đám giặc gọi là giặc Ân, hùng mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước” (Theo Trần Trọng Kim, 2005:20). dựng và giữ nước hơn 4000 nĕm2, chính sách công với tên gọi, trình độ nhận thức và phát triển có khác nhau, dù được sử dụng như đối sách, công cụ, phương thức khách nhau để thực hiện sự nghiệp trị quốc, phát triển xã hội hay trở thành ngành khoa học ứng dụng đều có lịch sử của mình qua 02 giai đoạn chính với 04 nấc thang phát triển cụ thể được mô tả bằng sơ đồ sau. Biểu đồ: Lược sử chính sách công ở Việt Nam từ thời kỳ thượng cổ đến nay (Nguồn: Nghiên cứu của tác giả) 93 1 củ Daniel Lerner và Harold D. Lasswell được xuất bản đã đánh dấu bước trưở thành mới khi khoa học chính sách chính thức tách khỏi nhiều ngành khoa học khác như chính trị, hành hính công, tâm lí ọ , luật học, xã hội họ ở thành ngành khoa học thực thụ Ở Việt Nam, cùng với dòng chảy lịch sử dựng và giữ nước hơn 4000 nĕm2, chính sách công với tên gọi, trình độ ận thức và phát triển có khác nhau, dù được sử dụng như đối sách, công cụ, phương thức khách nhau để thực hiện sự nghiệp trị ốc, phát triển xã hội hay trở thành ngành khoa học ứng ụng đều có lịch sử của mình qua 02 giai đoạn chính với 04 nấc thang phát triển cụ thể được mô tả bằng sơ đồ sau. Biểu đồ: Lược sử chính sác công ở Việt Nam từ thời kỳ t ượng cổ đến nay (Nguồn: Nghiên cứu của tác giả) Nhìn tổng thể, lịch sử chính sách công nước ta có thể khái quát ở hai giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Đây là thời kỳ ập quốc” mà sử sách gọi là thời đại “thượng cổ kéo dài từ nhà nước đầu tiên Vĕn Lang (2879 - 258 TCN), Âu Lạc (257 - 207 TCN) của nước ta đế ững nĕm 70 của thế kỷ XX (khi nhà nước phong kiến tập quyền cuối cùng tron ịch sử sụp đổ, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thắ ợi, lập ra nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nĕm 1945), tiếp tục sự nghiệp kháng chiến, kiế ốc, xây dựng nước Việt Nam thố ất). Trong giai đoạn này, nhận thức về chính sách công (theo cách gọi ngày nay) của ông cha từ chất phác, chưa rành rẽ “chưa thể chỉ ặt đặ và tường tận bước đầu được hình thành, phát triển, được ứng dụng trên thực tế phục vụ công việc trị ốc, an dân và xây dựng chế độ ới. Điều này biểu hiệ ở chính sách, cách thức xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền thời kỳ sơ khai và bảo vệ bờ cõi của nhà nước Vĕn Lang, Âu Lạc; qua các giai thoại từ ững câu chuyện truyề 1 Trong tác phẩm “The Policy Orientation, the policy science: Recent Development in scope and method” (Daniel Lerner, H.D. Lasswell, 1951) đã chỉ ra 03 đặc trưng của khoa học chính sách bấy giờ là: (i). đị hướng vấn đề cần giải quyết, (ii). đa ngành; (iii). quy chuẩn giá trị và phương pháp nghiên cứu chủ yế của ngành khoa học này - “phương pháp xem xét những gì nhà nước thực sự làm cho xã hộ 2 Theo Việt Nam sử lượ (Trần Trọng Kim, 2005:17), lịch sử nước ta tính từ thời họ Hồng Bàng gắn với nhà nước Vĕn Lang (2879 - 258 TCN) đến nay đã hơn 4000 nĕm. Thượng cổ Bắc thuộc Phong kiến, thuộc địa Xây dựng chế độ mới, cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và thực hiện đồng bộ công cuộc Đổi mới 939 1945 1975 1986 1858 207 TCN GIAI ĐOẠN 1: Chính sách công tồn tại với tư cách là hoạt động thực tiễn, công cụ thực hiện mục tiêu chính trị (đến khoảng những năm 70 thế kỷ XX) GIAI ĐOẠN 2: Chính sách công vừa tồn tại với tư cách (1). hoạt động thực tiễn, công cụ thực hiện mục tiêu chính trị vừa (2). ngành khoa học non trẻ (từ sau những năm 70 của thế kỷ XX đến nay) Những năm 70 thế kỷ XX Nhìn tổng thể, lịch sử chính sách công nước ta có thể khái quát ở hai giai đoạ sau: Giai đoạn 1: Đây là thời kỳ “khai thiên lập quốc” mà sử sách gọi là thời đại “thượng cổ” kéo dài từ nhà nước đầu tiên Vĕn Lang (2879 - 258 TCN), Âu Lạc (257 - 207 TCN) của nước ta đến những nĕm 70 của thế kỷ XX (khi nhà nước phong kiến tập quyền cuối cùng trong lịc sử sụp đổ, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thắng lợi, lập ra nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nĕm 1945), tiếp tục sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, xây dựng nước Việt Nam thống nhất). Trong giai đoạn này, nhận thức về chính sách công (theo cách gọi ngày nay) của ông cha từ chất phác, chưa rành rẽ “chưa thể chỉ mặt đặt tên” và tường tận bước đầu được hình thành, phát triển, được ứng dụng trên thực tế phục vụ công việc trị quốc, an dân và xây dựng chế độ mới. Điều này biểu hiện ở chính sách, cách thức xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền thời kỳ sơ khai và bảo vệ bờ cõi của nhà nước Vĕn Lang, Âu Lạ ; qua các giai thoại từ những câu chuyện truyền thuyết như vua Hùng thứ 6 dụng chính sách chiêu hiền đãi sĩ tìm nhân tài đánh giặc Ân (truyền thuyết Thánh Gióng), chính sách bảo vệ chủ quyền quốc gia từ xa, chủ động (qua câu chuyện Thục Phán An Dương Vương xây thành Cổ Loa3), Đồng thời, “chính sách” bấy giờ còn được biểu hiện là các kế sách, sách lược trị 94 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật quốc an dân của lãnh tụ, anh hùng, hào kiệt khởi xướng phong trào khởi nghĩa đánh giặc phương Bắc thời kỳ Bắc thuộc, của các bậc minh quân ở các triều đại phong kiến Việt Nam như Tiền Lý, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, Đặc biệt, đến đầu thế kỷ XX, đó là đường hướng, cách thức xây dựng, giác ngộ, tập hợp và tổ chức lực lượng toàn dân thực hiện cuộc cách mạng vô sản do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để đánh Pháp, đuổi Nhật, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ mới. Các chính sách ấy được biểu hiện đầy đủ, trọn vẹn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên 2/1930, Luận cương tháng 10/1930, đường lối kháng chiến kiến quốc, Tuyên ngôn độc lập nĕm 1945, Hiến pháp nĕm 1946, Hiến pháp nĕm 19591,... Giai đoạn 2: Đây là thời kỳ phát triển song hành giữa thực tiễn vận động của chính sách công và mầm móng về nền khoa học chính sách công đã bắt đầu xuất hiện. Khoa học chính sách công của nước ta đi muộn hơn thế giới khoảng 20 nĕm, đồng thời, được đánh dấu trở thành ngành khoa học “phôi thai” khoảng những nĕm 70 của thế kỷ XX. Khi ấy, các khái niệm như “phúc lợi xí nghiệp”, “an toàn xã hội”, “bảo đảm xã hội”, xuất hiện ngày càng nhiều trong công chúng, thông qua một số bài thông tin khoa học xã hội, sách dịch, đã thúc đẩy sự quan tâm của giới nghiên cứu. Đặc biệt, tại Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986), lần đầu tiên thuật ngữ “chính 1 Trong Chánh cương vắn tắt 1930 của Đảng Cộng sản Việt Nam được xem như Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã nhắc đến chính sách xuyên suốt - sợi chỉ đỏ của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, ghi rõ có 3 chính sách trên phương diện xã hội, 4 chính sách phương diện chính trị và 6 chính sách trên phương diện kinh tế. Quyết sách, chính sách, chiến thuật và thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1930 - đến nĕm 70 của thế kỷ XX) suy cho cùng là hiện thực hoá “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” của cách mạng Việt Nam được nêu trong Cương lĩnh (theo Vũ Như Khôi, 2010:26) sách xã hội” xuất hiện trong vĕn kiện, làm tiêu đề cho một phần riêng biệt. Sự kiện này đánh dấu nấc thang mới trong nhận thức của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò cấp thiết chính sách công, nghiên cứu chính sách công và cũng là thời điểm đánh dấu thời kỳ “khởi động” cho sự phát triển sôi động, mạnh mẽ của khoa học chính sách công ở nước ta cho những giai đoạn tiếp theo2. 2. THÀNH TỰU TRONG NGHIÊN CỨU VÀ VẬN HÀNH CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM HƠN 30 NĔM QUA 2.1. Thành tựu về mặt khoa học và học thuật Để công nhận một lĩnh vực nghiên cứu trở thành ngành khoa học phải dựa trên 03 trụ cột then chốt: (1). Đối tượng nghiên cứu, (2). Hệ thống lý luận khoa học và (3). Phương pháp nghiên cứu có tính điển hình. Do vậy, khoa học chính sách công cũng được xem xét, đánh giá trên 3 trụ cột ấy: a) Về đối tượng nghiên cứu Lịch sử khoa học chính sách công trên thế giới và ở Việt Nam không quá dài. Tuy vậy, đối tượng của ngành khoa học này cũng dần được phác lộ và khẳng định một cách thống nhất, qua đó dần khẳng định được tính “tự chủ” trong nghiên cứu so với các ngành khoa học khác có liên quan như chính trị học, xã hội học, triết học hay quản lý công, Ở bình diện chung, giới nghiên cứu đều tán đồng khi cho rằng, đối tượng nghiên cứu của khoa học chính sách công là một hệ thống biện pháp được thể chế hoá bởi nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu nào đó trong chiến lược phát triển xã hội3. Tiếp thu quan điểm chung của thế giới, ở Việt Nam, gần nửa thế kỷ nghiên cứu về ngành 2 Tham khảo bài giảng: “Chính sách xã hội” (Bùi Thế Cường, 2018). 3 Điểm qua quan điểm về chính sách công của các học giả hàng đầu và tiên phong về chính sách công trên thế giới như: Thomas Dye (1972), James Anderson (1984), William N.Dunm, Peter Aucoin, B. Guy Peter, 95 Chính sách công ở Việt Nam... khoa học này, một mặt các học giả thống nhất cho rằng đối tượng nghiên cứu ngành khoa học này chính là hệ thống quyết định của Nhà nước ban hành, gồm mục tiêu và giải pháp chính sách nhằm giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội, hướng đến thúc đẩy xã hội phát triển, thịnh vượng. Mặc khác, nhiều chuyên gia cũng có cĕn cứ khi cho rằng đối tượng nghiên cứu khoa học chính sách công ở nước ta rộng hơn so với đối tượng nghiên cứu ở bình diện chung, bởi lẽ, chúng ta quan niệm rằng, chính sách công không chỉ là sản phẩm chính trị của nhà nước mà hơn nữa có thể là “của các chủ thể chính trị có thẩm quyền”1. Quan điểm này dễ dàng bắt gặp trong các quyển giáo trình tài liệu chuyên khảo về chính sách công có tính “gối đầu giường” ở nhiều cơ sở đào tạo có truyền thống đi đầu trong nghiên cứu, đào tạo khoa học chính sách công như Học viện Hành chính quốc gia, Học viện Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam), Đại học Khoa học xã hội và Nhân vĕn, Học viện Chính sách và Phát triển, Nhận thức chưa thống nhất này đang dẫn đến sự tranh luận khoa học rất sôi nổi, cần thiết trên các diễn đàn về chính sách công tại Việt Nam hiện nay. Từ việc xác định thống nhất đối tượng nghiên cứu của khoa học chính sách công, các nhà nghiên cứu ở nước ta đã tạm phân chia các lĩnh vực, khu biệt các nội dung nghiên cứu của ngành khoa học này ở các nhóm sau: Nhóm 1: Những vấn đề lý luận chung về khoa học chính sách công. Trong nhóm này, các nội dung được nghiên cứu ở mức độ sơ lược hay chuyên sâu tuỳ theo cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu. Tuy vậy, vẫn có điểm chung là: - Vai trò của chính sách với tư cách là công cụ lãnh đạo, quản lý công đối với phát triển xã hội. - Nội hàm của chính sách công (hoặc có thể xem xét trong tương quan với chính sách tư). 1 Trần Vĕn Huấn, Nguyễn Hữu Hoàng (2018), Khoa học lãnh đạo: Hỏi và đáp, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr. 212. - Cấu trúc và phương thức, nguyên tắc vận hành của chính sách công. - Chu trình chính sách công. - Môi trường và các yếu tố tác động của chính sách công. - Phân tích chính sách công. Hay một vài vấn đề chuyên biệt, có liên quan như thể chế chính sách công, kiến tạo xã hội của chính sách công, chính sách công và chính trị, chính sách công và xã hội học, nĕng lực chính sách công hay mạng lưới phân tích chính sách công, Nhóm 2: Những phân tích, đánh giá chính sách công chuyên ngành Ở Việt Nam, gần 10 nĕm trở lại đây, việc ứng dụng tri thức chung của khoa học chính sách công vào nghiên cứu chính sách công ở nhiều chuyên ngành, lĩnh vực cụ thể ngày càng phổ biến. Điều này không chỉ phản ánh thông qua luận án, luận vĕn của học viên chuyên ngành, hệ thống bài báo khoa học, kỷ yếu hội thảo, xuất bản sách, mà còn thể hiện ở việc phân chia các lĩnh vực nghiên cứu thực tiễn chính sách công chuyên ngành như chính sách xã hội (chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách lao động - việc làm, chính sách đối với người có công, chính sách bảo hiễm xã hội,), chính sách kinh tế, chính sách vĕn hoá, chính sách môi trường, chính sách khoa học công nghệ, thậm chí là sự khởi xướng cho ngành khoa học mới gắn kết giữa xã hội học và khoa học chính sách công ở Việt Nam - “xã hội học chính sách công” Đây được xem là nỗ lực lớn của giới nghiên cứu chính sách công ở Việt Nam. b) Hệ thống lý luận khoa học Ngành khoa học nào cũng cần trang bị cho mình hệ thống lý luận khoa học tiếp cận (khái niệm, định nghĩa, phạm trù, lý thuyết, mô hình nghiên cứu,). Dù có mối quan hệ gần gũi với nhiều ngành khoa học khác, song hiện nay, khoa học chính sách công ở thế giới và Việt Nam vẫn đang từng bước hoàn thiện hệ thống lí thuyết riêng cho mình. Hệ thống lý thuyết phổ quát của 96 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật ngành khoa học này có thể kể đến như “chính sách công”, “chu trình chính sách công”, “cấu trúc chính sách công”, các tri thức về đặc điểm (bản chất), vai trò, nguyên tắc, phân loại, Ở Việt Nam, thời gian gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã nỗ lực để kế thừa và phát kiến nhằm làm rõ các vấn đề thuộc về hệ thống lí thuyết của chính sách công gắn với thực tiễn của đời sống chính sách tại Việt Nam. Chẳng hạn, luận bàn về nội hàm từ “công” trong chính sách công từ thực tiễn Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với chu trình chính sách công, chủ thể chính sách công ở Việt Nam hiện nay, so sánh chu trình chính sách và quy trình ban hành vĕn bản quy phạm pháp luật hiện hành ở nước ta, tính “xã hội” trong chính sách công, “đạo đức” của chính sách công, “tham nhũng” chính sách công ở Việt Nam, Các kết quả nghiên cứu này không những làm phong phú, sâu sắc tri thức phổ quát về khoa học chính sách công nói chung mà còn gián tiếp khẳng định sự vươn lên khẳng định vị thế, đóng góp của ngành khoa học chính sách công ở Việt Nam. Tuy vậy, hệ thống lí luận khoa học chính sách công Việt Nam cũng như trên thế giới đang đứng trước thách thức: (1) thiếu hệ thống lý thuyết tiếp cận chính sách công, (2). thiếu mô hình nghiên cứu chính về sách công. Ngoài các khái niệm, định nghĩa, phạm trù như đã trình bày ở trên, sự thiếu vắng hai yếu tố vừa kể có thể xem là thách thức rất lớn trong nghiên cứu về khoa học chính sách công ở Việt Nam. Bởi lẽ, một ngành khoa học không có hệ thống lí thuyết đặc thù, mô hình nghiên cứu tiêu biểu, thì hoặc không thể có cĕn cứ thuyết phục luận giải các hiện tượng, vấn đề của ngành khoa học mình hoặc không thể trừu tượng hoặc khái quát hoá một cách có hệ thống các vấn đề thực tiễn phong phú, mênh mông mà ngành khoa học mình đang hướng đến. Hiện nay, về phương diện tiếp cận lý thuyết chính sách công (và chính sách xã hội), thế giới có 03 lý thuyết phổ quát là: Lý thuyết đại diện (representational theory, lý thuyết tái hiện, tượng trưng, điển hình) của Wilensky và Lebeaux (1965), Lý thuyết giải thích/ hay phân tích (explanatory or analytical theory) của Anne Schneider và Hellen Ingram (1993) và Lý thuyết chuẩn tắc (normative theory, lý thuyết chuẩn mực, quy chuẩn, quy phạm) Taylor - Gooby và Dale (1981). Các mô hình về chính sách công có thể nhắc đến như mô hình công về chính sách xã hội của Richard Titmuss (nhà nghiên cứu quản trị xã hội người Anh)1 hay Mô hình chức nĕng về chính sách xã hội, Mô hình chính sách xã hội phát triển, mô hình giới tinh hoa, mô hình định chế, mô hình duy lí, mô hình tiệm tiến, mô hình lựa chọn công, mô hình lí thuyết trò chơi,2. Mặc dù vậy, theo tác giả, sự “thiếu” ở đây vừa hiểu là thiếu vắng các công trình nghiên cứu cũng như sự ít quan tâm (nếu không nói là ít, hoặc không đề cập, bàn luận hoặc vận dụng trong thực tiễn vận hành chính sách công) về vấn đề này. c) Phương pháp nghiên cứu chính sách Ở mỗi ngành khoa học, phương pháp nghiên cứu rất quan trọng, là cách thức để đạt mục tiêu trong nghiên cứu và khám phát đối tượng, lĩnh vực nghiên cứu của mình. Chính sách công ra đời trong bối cảnh các phương 1 Tham khảo: Lê Ngọc Hùng (2016), Khoa học chính sách xã hội và thực tiễn Việt Nam, bài đĕng trên Tạp chí Cộng sản online, truy cập: h t tp : / /www.tapchicongsan.org .vn/Home/ Nghiencuu-Traodoi/2016/38808/Khoa-hoc-chinh- sach-xa-hoi-va-thuc-tien-Viet-Nam.aspx - Lê Ngọc Hùng (2017), Khoa học chính
Tài liệu liên quan