Vùng biển Đông Việt Nam là khu vực chịu nhiều thiên tai bão tố, trong lịch sử cũng đã ghi chép rất nhiều về vấn đề thiên tai khu vực ven biển
Việt Nam. Đồng thời, trong lịch sử khi mà kỹ thuật đi
biển nói chung còn chưa phát triển, nhất là phương
tiện đi biển còn thô sơ, khó chống đỡ nổi những cơn
bão ngoài biển khơi. Cho nên, thuyền bè các nước
đi qua khu vực Biển Đông thường gặp nạn, chính vì
vậy trong lịch sử Việt Nam các triều đại đã thực hiện
chính sách cứu nạn trên biển, nhất là thời kỳ nhà
Nguyễn. Bài viết này chủ yếu khảo cứu về chính sách
cứu nạn trên biển đối với người nước ngoài dưới hai
thời vua Gia Long (1802 - 1820) và thời Minh Mạng
(1820 - 1841). Trong đó chúng tôi muốn nhấn mạnh
rằng, việc cứu nạn trên biển đối với người nước ngoài
không chỉ thể hiện tính nhân văn của chính quyền
nhà Nguyễn, mà còn thể hiện việc thực thi hoạt động
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông trong lịch sử
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách cứu nạn trên biển của nhà Nguyễn đối với người nước ngoài dưới thời vua Gia Long (1802 - 1820) và Minh Mạng (1820 - 1841), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
V ùng biển Đông Việt Nam là khu vực chịu nhiều thiên tai bão tố, trong lịch sử cũng đã ghi chép rất nhiều về vấn đề thiên tai khu vực ven biển
Việt Nam. Đồng thời, trong lịch sử khi mà kỹ thuật đi
biển nói chung còn chưa phát triển, nhất là phương
tiện đi biển còn thô sơ, khó chống đỡ nổi những cơn
bão ngoài biển khơi. Cho nên, thuyền bè các nước
đi qua khu vực Biển Đông thường gặp nạn, chính vì
vậy trong lịch sử Việt Nam các triều đại đã thực hiện
chính sách cứu nạn trên biển, nhất là thời kỳ nhà
Nguyễn. Bài viết này chủ yếu khảo cứu về chính sách
cứu nạn trên biển đối với người nước ngoài dưới hai
thời vua Gia Long (1802 - 1820) và thời Minh Mạng
(1820 - 1841). Trong đó chúng tôi muốn nhấn mạnh
rằng, việc cứu nạn trên biển đối với người nước ngoài
không chỉ thể hiện tính nhân văn của chính quyền
nhà Nguyễn, mà còn thể hiện việc thực thi hoạt động
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông trong lịch sử.
1. sự ra đời của chính sách cứu nạn của nhà
nguyễn đối với người nước ngoài
Trong lịch sử dân tộc, biển luôn giữ một vai trò
quan trọng đối với các triều đại phong kiến. Từ cư dân
của các nền văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh, Champa
tới các triều đại phong kiến Đinh, Lý, Trần, Lê đã vươn
ra làm chủ biển khơi.
Ở thế kỷ XVII, dưới thời kỳ trị vì của các chúa
Nguyễn, các ghi chép về tai nạn trên biển xuất hiện
còn khá khiêm tốn. Trong bản Toàn tập An Nam lộ
do một nhà Nho thời Lê sao chép có ghi rõ niên đại
Chính Hòa 7 (1686) phần bản đồ Phủ Quảng Ngãi
có chú thích bằng chữ Nôm: “Bãi cát vàng phỏng dài
CHÍNH SÁCH CỨU NẠN TRÊN BIỂN Của NHÀ NGUYỄN
ĐỐI VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI DƯỚI THỜI VUa
GIa LONG (1802 - 1820) VÀ MINH MẠNG (1820 - 1841)
? phẠm thị thƠm*
* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
400 dặm, rộng 20 dặm, ở giữa biển khoảng từ cửa biển
Đại Chiêm kéo đến cửa biển Quyết Mông. Gió tây nam
thuyền đi vào trong sẽ mắc cạn, gió đông bắc mà thuyền
đi lại cũng bị tắc lại ở đó. Đều bị chết đói, của cải phải bỏ
lại”.1 Sau đó trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết:
“Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này
(Hoàng Sa)”.2 Tuy nhiên thời kỳ này các ghi chép chủ
yếu ghi lại sự việc các vụ đắm tàu trong khi đó hoạt
động quan trọng là cứu người bị nạn lại không thấy
được ghi chép cụ thể. Trong Đại Nam thực lục tiền
biên, các sự việc cứu giúp người bị nạn trên biển được
ghi chép không nhiều và khá sơ lược.3 Những ghi
chép của Đỗ Bá đã cho thấy các chúa Nguyễn chưa
có “sự can thiệp đáng kể nào” đối với các thuyền buôn
và thương nhân bị nạn trên vùng quần đảo Hoàng Sa
cũng như Trường Sa. Qua đó càng thấy rằng sự quan
tâm và các hoạt động cứu nạn thời kỳ này của triều
đình đã dần hình thành nhưng chưa trở thành chính
sách cụ thể, các hoạt động cứu nạn còn lẻ tẻ, chưa
tập trung.
49Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Dưới triều Nguyễn thời kỳ Gia Long - Minh Mạng,
nhận thức về vị thế biển được nâng lên thêm một
bước với việc đề ra các chính sách cụ thể và toàn diện
dành riêng cho những người bị nạn trên biển. Cả hai
vị vua này đều coi trọng biển, ý thức về biển của hai
người không chỉ bó hẹp trong việc phát triển ngoại
thương mà còn bao gồm cả ý thức về chủ quyền trên
biển, mối quan hệ bang giao với các nước và lòng
nhân đạo giữa con người với con người. Vua Gia Long
cho rằng: “thiên tai lưu hành xưa nay đời nào cũng
có”, vì vậy “giúp người cùng thương kẻ thiếu là việc
đầu tiên của lòng nhân chính”.4 Năm 1803, Gia Long
năm thứ 2 chuẩn định rằng: “Những thuyền buôn bị
bão, vỡ thuyền, của cải mất hết, đó là nhà buôn bị nạn.
Quan sở tại nên căn cứ vào số nhân khẩu trong thuyền
là bao nhiêu mà cấp phát cho mỗi người một tháng
lương thực của công để những người buôn bán đó độ
nhật, chờ khi thuận gió cho được tùy tiện (ở lại hay
đi)”.5 Tiếp nối những tư tưởng của vua Gia Long, tới
đời vua Minh Mạng, các chính sách cứu nạn biển tiếp
tục được hoàn thiện. Năm Canh Thìn đời Minh Mạng
thứ nhất (1820) chiếu rằng: “Thương người bị nạn để rõ
chính sách nhân từ. Vả đường biển gian hiểm, sóng gió
khó lường, gần đây quan quân dân chúng hoặc đi việc
công hoặc đi buôn bán, lợi hiểm lặn sâu đều là bất đắc
dĩ cả bỗng gặp nạn gió, người sống thì không nơi nương
tựa, người chết không ai liệm bọc, xét soi thấy thế, rất
đáng xót thương”.6
Có thể thấy thời kỳ này các ghi chép về những vụ
đắm tàu và sự giúp đỡ của triều đình xuất hiện nhiều
hơn so với thời các chúa Nguyễn. Tới thời kỳ trị vì của
vua Minh Mạng, mọi vụ đắm tàu đều được triều đình
chẩn cấp trừ những người phạm tội, vua yêu cầu các
quan địa phương phải hỏi rõ thông tin về những nạn
nhân bị nạn để đưa ra mức chẩn cấp phù hợp. Những
quy định trong chính sách giúp người bị nạn của vua
Gia Long và Minh Mạng đã cho thấy một bước tiến
dài kể từ thời chúa Nguyễn. Thời kỳ này, chính sách
cứu nạn đã trở thành một bộ phận không thể tách rời
trong các chính sách hướng về biển khơi, trong hoạt
động xác lập chủ quyền trên biển thông qua chính
sách cứu giúp người bị nạn. Bên cạnh đó, Gia Long và
Minh Mạng còn coi các hoạt động cứu nạn là “chính
sách ngoại giao gián tiếp” với các nước trên thế giới
qua đó cho thấy tư tưởng nhân đạo “thương người như
thể thương thân” của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đây
là tư tưởng, tầm nhìn chính trị hoàn toàn mới và chưa
hề xuất hiện trong các triều đại trước ở nước ta. Tiếp
thu những tư tưởng này của Gia Long - Minh Mạng,
từ những đời vua kế vị về sau, thời nào chính sách cứu
giúp người bị nạn trên biển cũng được triều đình chú
trọng và triển khai hiệu quả. Các ghi chép trong Đại
Nam thực lục Chính biên đã cho thấy tư tưởng này của
vua Gia Long và Minh Mạng đã thực sự trở thành một
phần không thể thiếu trong các chính sách liên quan
tới biển của triều Nguyễn suốt 150 năm tồn tại.
Nghiên cứu - Trao đổi
Địa điểm xảy ra tai nạn dưới thời vua Gia Long
- Minh Mạng: Qua khảo cứu một số bộ sử của nhà
Nguyễn và các tư liệu khác thì vùng biển Việt Nam
trải khắp ba kỳ đều có tàu thuyền bị nạn nhưng nhiều
hơn cả là ở khu vực Trung Kỳ và quanh các đảo xa
bờ. Năm Gia Long thứ 8 (1809), 65 chiếc thuyền vận
tải của Bắc thành gặp gió ở ngoài phần biển Nghệ
An7 hay năm Gia Long thứ 9 (1810) thuyền buôn ở
cửa Eo (cửa Thuận An) và cửa Tư Dung bị chìm đắm,
nhân dân có người chết đuối.8 Thời vua Minh Mạng
khu vực này cũng đã nhấn chìm rất nhiều thuyền bè
qua lại. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826) thuyền vận tải
của Quảng Bình gặp bão bị vỡ ở bờ biển Quảng Trị9,
sang tới năm sau, Đại Nam thực lục chính biên tiếp tục
ghi nhận thêm vụ đắm 16 thuyền vận tải ở vùng biển
Vũng Chùa (thuộc Quảng Bình) do bão.10 Qua những
ghi nhận của Quốc sử quán, các thuyền bè sau khi bị
bão hay mắc cạn có xu hướng trôi dạt nhiều vào ven
biển Trung Kỳ.11
Trên các đảo xa bờ, nhiều vụ tai nạn do va chạm
phải đá ngầm cũng đã được ghi chép tỉ mỉ và chính
xác. Theo Châu bản triều Nguyễn ở Cục Lưu trữ Trung
ương I hiện nay vẫn còn lưu giữ được một số bản ghi
chép của Quốc sử quán liên quan tới các vụ đắm tàu ở
Hoàng Sa. Tiêu biểu phải kể đến bản tâu của thủ ngữ
cảng Đà Nẵng ngày 27 tháng 6 năm 1830 (năm Minh
Mạng thứ 11) do thuyền trưởng Đô-ô-chi-ly (thuyền
trưởng tàu buôn Pháp Ê-đoa) cung cấp thông tin
rằng: “Ngày 20 tháng 6 năm 1930 thuyền buôn của triều
đình do Lê Quang Quỳnh và các thủy thủ đoàn rời cảng
Đà Nẵng đi Lữ Tống - Manila - Philippines đến canh hai
ngày 21 tháng 6 đụng phải đá ngầm ở phía tây Hoàng
Sa, thuyền bị ngập nước”.12 Sau đó trường hợp bị nạn
của Thái Đình Lan năm Minh Mạng thứ 16 (1835) trên
đảo Cù Lao Chàm tiếp tục là minh chứng cho sự nguy
hiểm của thiên tai thời tiết trên các đảo. Ngoài các
châu bản và các tập du hí của người nước ngoài, trong
các bộ sử chính thống của triều Nguyễn cũng đề cập
tới các vụ đắm tàu ở Hoàng Sa. Minh Mạng chính yếu
năm thứ 17 chép: “Thuyền buôn nước Anh Cát Lợi gặp
gió bão ở vùng đảo Hoàng Sa tạm ghé vào địa phận
tỉnh Bình Định, trên thuyền có khoảng hơn 50 người.13
Sau đó, năm Minh Mạng thứ 20 (1837), Đại Nam thực
lục chính biên tiếp tục ghi nhận các trường hợp đắm
tàu ở Hoàng Sa như trường hợp của Phạm Văn Biện
bị bão, sóng gió đánh chìm thuyền bè ở Hoàng Sa.14
Nạn nhân bị nạn dưới thời vua Gia Long - Minh
Mạng: Trong các thư tịch của triều Nguyễn, chính
sách cứu giúp người bị nạn được quy định rõ ràng với
từng đối tượng và được thực hiện khá triệt để. Nạn
nhân phần lớn là những người buôn bán trong nước,
các thương nhân người Hoa, người Xiêm, người Chân
Lạp, người Vạn Tượng, người Anh và người Pháp. Một
bộ phận nhỏ là những binh lính, dân phu đi làm việc
công, các quan lại hay các sứ thần của các nước gặp
nạn và được triều đình cứu giúp.
Bổ sung những thiếu sót từ thời vua Gia Long, tới
thời vua Minh Mạng chính sách cứu nạn người trên
biển đã dần hoàn thiện và tiếp tục được các đời vua
về sau áp dụng. Các chính sách chuẩn cấp của vua
Minh Mạng đã cho thấy các mức rõ ràng đối với từng
đối tượng. Với các quan lại binh lính của triều đình
50 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
đi làm việc công bao giờ cũng được ưu tiên cấp tuất
nhiều hơn, mức chẩn cấp của dân chúng phụ trách
việc vận tải của triều đình cũng cao hơn dân buôn.
Các chính sách cứu nạn đối với các sứ thần quan lại
được triều đình quan tâm và dành nhiều ưu đãi, đôi
khi còn chuẩn bị từ nơi ăn uống, nghỉ ngơi cho tới
việc hộ tống về nước. Tuy nhiên qua khảo cứu có thể
thấy rằng quy định chẩn cấp cho từng đối tượng trên
của triều đình được thực hiện mang tính chất tương
đối và tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể cũng như đối
tượng bị nạn là người nước nào. Qua các ghi chép của
Quốc sử quán triều Nguyễn trong các lần chẩn cấp
cứu giúp người bị nạn triều đình thường được cấp
nhiều hơn quy định ban đầu đối với các người bị nạn
nước ngoài, đặc biệt là người Thanh.
2. Quá trình triển khai và ý nghĩa chính sách
cứu nạn dưới triều vua gia long - minh mạng
Phần lớn các nạn nhân trong chính sách cứu nạn
trên biển của triều Nguyễn là các thuyền buôn và
quan quân nước ngoài. Qua ghi chép về những ân
cấp của triều Nguyễn đối với người nước ngoài, có
thể thấy triều đình còn phân biệt rõ đối tượng người
nước ngoài là người Thanh, người Xiêm, người Chà Và
hay người phương Tây. Các ghi chép cũng cho thấy
nạn nhân trong các vụ đắm tàu là người Thanh chiếm
1 số lượng đáng kể và triều đình cũng dành nhiều ưu
ái hơn với đối tượng này. Sở dĩ có sự khác biệt này là
do chính sách bế quan tỏa cảng cùng nhu cầu kiểm
soát chủ quyền biển đảo trong thời kỳ có nhiều biến
động phức tạp từ bên ngoài.
Đối với nạn nhân là người phương Tây: Năm
1804, Chính phủ Anh sai sứ đến xin thông thương ở
Việt Nam và cho người Anh cư trú ở Đà Nẵng nhưng
không được vua Gia Long chấp thuận.15 Tương tự với
người Anh, tới cuối thời Gia Long, quan hệ Việt - Pháp
đã bị hạn chế chỉ trong phạm vi buôn bán. Năm 1817,
khi chiến hạm Cybèle cập bến Đà Nẵng và liên lạc
với những đại diện của Pháp tại Huế (Chaigneau và
Vainnier) mong muốn tiếp kiến vua Gia Long nhưng
vua đã lấy cớ phái viên nước Pháp không có quốc thư
nên không cho gặp.16 Sang đời Minh Mạng, các hoạt
động giao thiệp với phương Tây càng trở nên hạn chế
hơn. Hai triều vua Gia Long và Minh Mạng đã thực
hiện chính sách đối ngoại khá chặt chẽ với phương
Tây, họ đã khước từ hơn 30 đoàn ngoại giao và ngoại
thương muốn đặt quan hệ với nước ta. Vua Minh
Mạng từng giải thích về các chính sách này rằng: “Bản
triều ta đối với người Tây phương họ đến cũng không
cự, họ đi cũng không theo, chỉ đối đãi như người đi dịch
thôi. Thuyền Tây dương đến, không cho tiếp xúc với
dân địa phương, bán hàng xong thì đi, kiểm soát chặt
chẽ”.17 Tuy vậy dù hạn chế quan hệ trong các hoạt
động buôn bán, ngoại giao nhưng triều đình vẫn sẵn
sàng cứu giúp các thuyền buôn, thuyền công người
Pháp, người Anh bị nạn trên vùng biển Việt Nam bởi
Gia Long từng nói: “Thương xót kẻ bị nạn là việc phải
làm trước của chính sách nhân từ”.18 Đối với các nạn
nhân bị nạn là người Anh và người Pháp, dưới thời
vua Gia Long và Minh Mạng triều đình đều ban phát
tiền và gạo rồi cho họ trở về nước, hạn chế việc lên bờ
buôn bán. Vua Minh Mạng năm thứ 7 có chỉ: “Lần ấy
51Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
52 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
thuyền buôn nước Anh đỗ ở hải phận trấn Bình Thuận
chạm phải chỗ nông cạn thuyền bị vỡ mà hàng hóa còn.
Ta nghĩ bọn ấy đã là nhà bị nạn đáng nên thương xót
nhưng nước ở ngoài phương xa cũng không nên để đi
lại tự do. Nay cho thành Gia Định cấp tốc châm chước
liệu bắt thuyền to hoặc thuyền đại dịch 1 chiếc hay 2
chiếc thủy thủ thuyền hộ phải am hiểu đường đi biển tới
Hạ Châu Tân-gia-ba để nước ấy biết triều đình ta có ý
thương xót đến thuyền buôn bị nạn”.19 Trường hợp đối
với người Pháp cũng được triều đình cứu giúp tương
tự. Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), thuyền buôn Đô-ô-
chi-ly bị bão chìm ở hải phận Đà Nẵng, Minh Mạng sai
tỉnh Quảng Trị cấp cho 100 quan tiền, 50 phương gạo
đồng thời tìm cách đưa họ về nước.20 Chỉ có một số
ít trường hợp nạn nhân bị nạn trên các đảo hoặc các
vụ tai nạn nghiêm trọng mới được triều đình cho ở lại
và chẩn cấp có phần ưu hậu hơn. Hội điển ghi chép
rất chi tiết về sự kiện thuyền buôn nước Anh bị bão
trên đảo Hoàng Sa năm 1836 và sự cứu giúp của triều
đình như sau: “Nay xét trong tập trình này ở trấn Bình
Định, có người Tây dương đi thuyền buôn Tây dương bị
gió bão bơi dạt vào hạt ấy lên bờ may được sống sót đã
chiếu phát tiền gạo, xin cho bê phái người thông ngôn
đến đó phiên dịch, hỏi han Và bọn ấy là nước ở mãi
Tây phương xa thẳm không như người Thanh qua lại,
nay không may gặp nạn gió ấy tình cũng đáng thương.
Cho tỉnh ấy ở cạnh bờ lựa chọn nơi an trú rồi gia ơn cấp
cho mỗi người đủ 1 quan tiền trong đó có tên thuyền
trưởng cấp cho 3 quan và đầu mục mỗi người 2 quan
để sinh sống. Nay xét lời tâu phúc lại thời đó là thuyền
buôn Anh Cát Lợi gặp phải Cát Vàng chỗ nông, thuyền
chìm vỡ nhờ được 3 chiếc xam bơi tới bờ, tình lại thương
xót lại thưởng cho người thuyền trưởng ấy áo quần Tây
dương và chăn vải mỗi người đều 1, người đi theo cũng
thưởng cho áo quần đều 1, lại cho bọn ấy nơi an trú
đưa thêm ván gỗ đệm chiếu để họ yên ngủ khỏi phải
rét mướt. Trong đó có ai mắc bệnh cũng cho thuốc điều
trị, lần ấy lính thủy sư đang thao diễn ở đường biển cho
thuận đường biển đưa những người Tây dương ấy tới
bến khẩu Hạ Châu để họ về nước. Khi bọn họ trở về cấp
cho đồ ăn uống một lần nữa để tỏ ý mềm dẻo thương
người phương xa”.21
Đối với nạn nhân là người Xiêm: Việt và Xiêm là
hai nước có mối quan hệ giao hiếu thường xuyên với
nhau và đều là phiên thần của Trung Quốc. Vì vậy dưới
thời Gia Long, mối quan hệ Việt - Xiêm diễn ra tốt đẹp.
Sang thời kỳ trị vì của vua Minh Mạng, đều là nước
có thế lực hơn Chân Lạp và Vạn Tượng, từ năm 1927
cuộc chiến tranh giữa Xiêm và Vạn Tượng nổ ra khiến
cho quan hệ Việt - Xiêm cũng bị ảnh hưởng.22 Mặc dù
vậy, những người Xiêm gặp nạn trên biển Việt Nam
vẫn nhận được sự giúp đỡ của triều đình. Năm 1834,
vua Minh Mạng xuống chỉ: “Đối với người nước Xiêm
từ trước đến giờ đường biển có người và thuyền bị nạn,
trên bộ có dân xiêu dạt, hễ xảy ra ở địa phận nước ta thì
ta đều giúp đỡ ưu hậu và đưa về”.23 Qua khảo cứu có
thể thấy mức chẩn cấp đối với thuyền buôn và thuyền
sứ của người Xiêm đều bằng nhau, không có sự phân
biệt; triều đình chủ yếu cấp lương thực và tiền rồi cho
họ về nước, không có biệt đãi gì đặc biệt đối với các
quan cấp cao nhà Xiêm gặp nạn. Năm Gia Long thứ
8, thuyền buôn của Ngô Nghạnh (người Xiêm) gặp
gió bão dạt vào bến Đà Nẵng được triều đình cấp cho
200 phương gạo rồi cho về nước.24 Đối với các thuyền
sứ nước Xiêm trên đường sang nước Thanh nộp cống
gặp gió hay bị cháy, Gia Long năm thứ 16 (1817) chuẩn
định “thuyền sứ giả bị nạn gió, bị cháy cũng như thuyền
buôn bị nạn”, sai dinh thần Quảng Nam cấp cho 200
phương gạo.25 Ngoài việc coi thuyền sứ bị nạn cũng
như thuyền buôn, triều đình còn cho thấy thái độ đề
phòng đối với người Xiêm khi họ đi lại trên lãnh thổ
Việt Nam. Năm Gia Long thứ 14 (1815) thuyền của sứ
thần nước Xiêm sang nước Thanh nộp thuế gặp bão
neo đậu ở phận biển Bình Định, khẩn xin đến Kinh
chầu. Trấn thần đem việc tâu lên, vua sai thưởng mỗi
người 3 tháng lương, hộ tống đến Kinh sau đó lại cấp
thêm cho mỗi người 5 tháng lương rồi cho về nước.
Khi về sứ giả tâu xin quan Nam Vang muốn tới thăm
vua Phiên rồi theo đường Châu Đốc, Hậu Giang về
nước. Vua cho rằng “như thế là có ý nhòm ngó” nên
không cho.26 Vấn đề này tới triều vua Minh Mạng có
vẻ bớt khắt khe hơn. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825),
thuyền nước Xiêm bị bão trôi dạt vào vùng duyên hải
tỉnh Bình Định; thuyền trưởng Hoàng Nghi xin triều
đình cấp cho 200 quan tiền và 500 phương gạo được
vua y cho.27 Tới năm 1828, thuyền Chánh sứ nước
Xiêm vượt biển sang cống nước Thanh bị mắc cạn ở
hải phận Bình Thuận, thuyền Phó sứ cũng bị vỡ chìm
ở hải phận Hà Tiên. Vua dụ bộ Lễ rằng: “ta với nước
Xiêm vốn giữ tình hữu nghị” bèn hạ lệnh cho trấn thần
Bình Thuận và Hà Tiên mời đến công quán tiếp đãi tử
tế rồi sắc cho Bình Thuận đưa Chánh sứ tới Hà Tiên
để gặp Phó sứ, sai Chánh đội trưởng Mạc Hân Hy lấy
thuyền công hộ tống về nước.28
Đối với nạn nhân là người nhà Thanh: Riêng đối
với nhà Thanh, triều đình Gia Long - Minh Mạng vẫn
giữ thái độ thuần phục của nước nhỏ đối với nước
lớn bằng các hoạt động bang giao (triều cống),
53Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
ngoại thương Trong hoạt động bang giao, ngoài
việc sai sứ đem lễ phẩm đi tiến cống (4 năm 1 lần)
thì mỗi khi có việc chúc mừng (mừng thọ, vua mới
đăng quang) hay tạ ơn hoặc cầu phong thì nhà
Nguyễn đều cử đoàn sứ thần sang Trung Quốc. Mỗi
khi có sứ nhà Thanh sang nước ta đều được triều
đình coi trọng và chuẩn bị chu đáo. Trong hoạt động
buôn bán, nếu như những người Tây phương đi trên
thuyền buôn của họ thậm chí đi nhờ trên những
thuyền buôn người Hoa đều không được phép lên bờ
khi cập bến thì mọi người Hoa không phân biệt thành
phần xã hội, tuổi tác, giới tính đều được phép lên bờ
và sinh sống ở Việt Nam trong các bang địa phương
của họ.29 Điều đó phần nào lý giải về sự ân cấp đặc
biệt đối với người Hoa bị nạn trên biển Việt Nam. Mức
chẩn cấp của triều đình có thể chia thành 2 mức cách
biệt đối với dân thường và các quan quân, các trí thức
nhà Thanh đi làm việc công gặp tai nạn. Tuy nhiên các
chính sách cứu giúp người Thanh không có mức chẩn
cấp cụ thể, triều đình thường căn cứ vào đối tượng
và tính chất vụ việc để chẩn cấp cho họ. Nếu người bị
nạn là các quan quân, các trí thức thì họ không những
nhận được chẩn cấp đầy đủ về tiền, nước uống, nhà
ở, chi phí đi lại sinh hoạt mà còn nhận được sự quan
tâm của quan lại triều đình Gia Long - Minh Mạng với
việc tới hỏi thăm trò chuyện và sau đó đưa họ trở về
nước an toàn. Đối với người bị nạn là dân địa phương
người Hoa đi buôn bán cũng được triều đình dành
cho mức chẩn cấp cao hơn các đối tượng dân buôn ở
các nước khác. Năm Minh Mạng thứ 12 vua dụ Bộ Lại
rằng: “Phê duyệt tập của Lưu Đình Luyện nói rằng người
Thanh bị nạn gió cấp lương ăn 10 ngày, thuyền bè của
họ bị vỡ, của cải không còn gì lẽ ra phải xem xét giúp đỡ
thêm để tỏ lòng nhân đạo, rộng rãi của vua, thế mà chỉ
có chút ít như thế thì ra thể thống gì”.30 Hành động cứu
giúp người Thanh gặp nạn xuất hiện thường xuyên
trong các ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Theo GS. Lương Chí Minh từ năm 1801 đến năm 1860,
Việt Nam từng 29 lần cứu giúp nhân dân Trung Quốc
gặp nạn trên biển.31
Đối với dân buôn nhà Thanh gặp nạn,