Tóm tắt
Thế kỷ XVI - XVIII là một trong những giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Trái với hình ảnh đất
nước đau thương do sự chia cắt giữa Đàng Ngoài - Đàng Trong và cuộc nội chiến giữa chúa Trịnh và
chúa Nguyễn, đây là giai đoạn chứng kiến sự hội nhập, giao lưu văn hóa mạnh mẽ nhất của các chính
thể phong kiến Việt Nam thời trung đại. Chúa Nguyễn với tầm nhìn và chính sách hướng biển mạnh mẽ
đã không ngừng khuyến khích, tham gia vào các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa trong khu vực và
quốc tế. Các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong đã trở thành cửa ngõ đón nhận những hoạt động giao
lưu văn hóa đa chiều này. Đặt trong dòng chảy tiếp giao văn hóa không ngừng, bài viết góp phần tái
hiện môi trường quốc tế đa dạng của xứ Thuận - Quảng và đánh giá lại một số chính sách của chúa
Nguyễn khi là chất xúc tác quan trọng, tạo đà cho sự hội nhập của Đàng Trong hơn hai thế kỷ
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 728 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chúa Nguyễn và những hoạt động giao lưu văn hóa tại Đàng Trong thế kỷ XVI - XVIII, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
53Số 31 (Tháng 3 - 2020)
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
 VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI
CHÚA NGUYỄN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG GIAO LƯU VĂN HÓA 
TẠI ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVI - XVIII
VŨ THỊ XUYẾN*
Tóm tắt
Thế kỷ XVI - XVIII là một trong những giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Trái với hình ảnh đất 
nước đau thương do sự chia cắt giữa Đàng Ngoài - Đàng Trong và cuộc nội chiến giữa chúa Trịnh và 
chúa Nguyễn, đây là giai đoạn chứng kiến sự hội nhập, giao lưu văn hóa mạnh mẽ nhất của các chính 
thể phong kiến Việt Nam thời trung đại. Chúa Nguyễn với tầm nhìn và chính sách hướng biển mạnh mẽ 
đã không ngừng khuyến khích, tham gia vào các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa trong khu vực và 
quốc tế. Các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong đã trở thành cửa ngõ đón nhận những hoạt động giao 
lưu văn hóa đa chiều này. Đặt trong dòng chảy tiếp giao văn hóa không ngừng, bài viết góp phần tái 
hiện môi trường quốc tế đa dạng của xứ Thuận - Quảng và đánh giá lại một số chính sách của chúa 
Nguyễn khi là chất xúc tác quan trọng, tạo đà cho sự hội nhập của Đàng Trong hơn hai thế kỷ.
Từ khóa: Đàng Trong, chúa Nguyễn, giao lưu văn hoá, tiếp xúc văn hóa
Abstract 
The XVI - XVIII century is one of the special periods of Vietnamese history. Contrary to the image 
of the country grieved by the partition between Dang Ngoai (the north) and Dang Trong (the south) 
and the civil war between Lord Trinh and Lord Nguyen, this was the period that witnessed the most 
powerful integration and cultural exchange of the feudal system of Vietnam in the Middle Ages. Lord 
Nguyen, with his strong vision and sea-orientating policy, had constantly encouraged and participated 
in regional and international economic and cultural exchanges. The urban ports along the coasts of 
Dang Trong had become the gateway to welcome these multidimensional cultural exchanges. Set 
in the constant flow of cultural communication, the article contributes to re-enacting the diverse 
international environment of Thuan - Quang area and re-evaluating some of Lord Nguyen’s policies 
as an important catalyst, creating momentum for the integration of Dang Trong for more than two 
centuries.
Keywords: Dang Trong, Lord Nguyen, cultural exchanges, cultural contacts
Hoạt động giao lưu, tiếp biến văn hóa là nhu cầu thiết yếu của mỗi quốc gia trong tiến trình xây dựng, phát 
triển và khẳng định bản sắc. Nằm tiếp giáp 
với một trong những trung tâm văn minh lớn 
của nhân loại và cũng là một trong hai trung 
tâm văn hóa văn minh lớn, tiêu biểu nhất của 
phương Đông, cho nên, điều dễ hiểu là từ rất 
sớm văn minh Trung Hoa đã có ảnh hưởng sâu 
đậm đến văn hóa Việt Nam1. Không thể phủ 
nhận rằng, nhiều đặc điểm tương đồng về 
thiết chế chính trị, cấu trúc xã hội, văn hóa của 
người Việt là hệ quả của quá trình “va chạm” 
với văn minh Trung Hoa2. Tuy nhiên, cũng 
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và 
giữ nước của người Việt, cùng với việc kiến lập 
một quốc gia độc lập, có đường biên giới rạch 
 VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI
* ThS., Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN
Số 31 (Tháng 3 - 2020)54
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ròi, đặc tính văn hóa riêng biệt với phương 
Bắc, thì đặc điểm nổi trội trong quá trình hình 
thành và phát triển lãnh thổ của Đại Việt đó là 
sự mở rộng không ngừng về phương Nam. 
Hành trình hàng thế kỷ tiến về phía nam 
đó, trước hết là một sự “kéo giãn” tự nhiên 
trước áp lực dân số ngày càng tăng của đồng 
bằng sông Hồng, là “chiến lược” làm giảm đi 
ảnh hưởng của nền văn minh phương Bắc vốn 
liên tục gây sức ép với các chính thể phong 
kiến Việt Nam. Hay theo quan điểm của nhiều 
học giả, việc tiến về phía nam của người Việt 
là quá trình “giải Hoa hóa” trong văn hóa Việt 
Nam. Không chỉ là quá trình mở rộng, sáp 
nhập những không gian địa lý khác nhau, việc 
tiến về phía nam còn là cơ hội để người Việt 
thâu nhận, tiếp giao các giá trị mới từ phương 
Nam, làm đa dạng văn hóa của mình. Trong sự 
tiếp xúc và thẩm thấu không ngừng đó thì thế 
kỷ XVI - XVIII, trái với hình ảnh đau thương do 
sự chia cắt giữa Đàng Ngoài (Tonkin) - Đàng 
Trong (Cochinchina), giữa chúa Trịnh - chúa 
Nguyễn, đây lại là giai đoạn biên giới của Đại 
Việt được mở rộng mạnh mẽ nhất. 
Với tầm nhìn vượt thời đại, thực thi hàng 
loạt chính sách cởi mở, hướng biển, các chúa 
Nguyễn Đàng Trong (1558 - 1777) từ thế cuộc 
chính trị bị động đã trở thành những người 
chủ động kiến lập một vương quốc, một mô 
hình độc lập với Đàng Ngoài. Trên điều kiện 
địa lý nhiều thuận lợi cho các hoạt động giao 
lưu kinh tế biển, nắm bắt nhanh chóng những 
xung lực do bối cảnh khu vực và quốc tế mang 
lại, cùng chính sách thoáng mở, Đàng Trong đã 
tạo dựng môi trường quốc tế năng động cho 
các hoạt động trao đổi, buôn bán, tương tác 
về mặt văn hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử, văn 
hóa Việt Nam ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài 
được định vị không chỉ bởi nhân tố Trung Hoa 
truyền thống mà còn có sự đóng góp to lớn 
của người Nhật, người Đông Nam Á, và cả 
người phương Tây. Trao đổi thương mại kéo 
theo hoạt động giao lưu về mặt văn hóa đã 
mang đến cho chúa Nguyễn Đàng Trong, dù là 
người đến sau nhưng có vai trò then chốt hồi 
sinh những di sản của người Chăm trước đây 
[7]. Môi trường hội nhập quốc tế đa dạng được 
thúc đẩy bởi các chính sách của chúa Nguyễn 
là chất xúc tác cho sự phát triển của những 
hoạt động giao lưu, tiếp xúc văn hóa tại Đàng 
Trong thế kỷ XVI - XVIII. 
1. Môi trường quốc tế đa dạng tại Đàng 
Trong 
Với vị trí địa lý và tài nguyên thuận lợi cho 
thương nghiệp, từ xa xưa, chủ nhân của dải 
đất miền Trung đã biết dựa vào biển, khai thác 
nguồn lợi của biển để bù đắp những thiếu 
hụt, hạn chế của ngành kinh tế “bản lề” nông 
nghiệp. Không thể phủ nhận rằng, chủ nhân 
của nền văn minh Chăm Pa - người tiền nhiệm 
trên không gian lãnh thổ của chúa Nguyễn, 
là những cư dân sống dựa vào biển điển hình 
[25]. Hình ảnh tháp Chàm nguy nga, lộng lẫy 
- di sản văn hóa vô giá của người Chăm, nằm 
duyên dáng đan xen vào màu xanh của núi 
rừng, trải khắp dải đất miền Trung là minh 
chứng rõ ràng cho tiềm lực kinh tế vững mạnh 
của người Chăm [3, tr.107-125]. Sức mạnh kinh 
tế ấy chắc chắn không chỉ từ nguồn thu của 
ngành nông nghiệp, mà còn có sự đóng góp 
rất lớn của nguồn lợi từ rừng, từ những mối 
quan hệ thương mại giữa biển và lục địa điển 
hình của người Chăm. 
Là những người đến sau, trong thế cuộc 
chính trị bất ổn, chúa Nguyễn đã rất nhạy bén 
kế thừa các thành tựu, kinh nghiệm của người 
Chăm trước đây khi xây dựng bệ đỡ về mặt 
kinh tế cho chính thể của mình3. Trước những 
tác động mạnh mẽ của thị trường quốc tế do 
Kỷ nguyên Đại thương mại [4] mang lại, chúa 
Nguyễn cũng đặt cược thể chế của mình trên 
nền tảng kinh tế ngoại thương, đặc biệt là các 
mối giao thương trên biển. Có thể khẳng định 
rằng, chính nhờ việc phát huy hiệu quả điều 
kiện thuận lợi của yếu tố ngoại sinh và nội sinh, 
chúa Nguyễn đã mang đến một tiềm lực phát 
triển mới cho vùng đất vốn được coi là chốn Ô 
châu ác địa. Khai thác vị trí trung gian của các 
cảng thị trong mạng lưới thương mại khu vực, 
thông qua hệ thống thuế khóa được quy định 
rõ ràng đối với tàu thuyền ngoại quốc đến và 
55Số 31 (Tháng 3 - 2020)
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
 VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI
đi [23, tr.165], chúa Nguyễn đã thu được nguồn 
tài chính rất lớn, bổ sung cho những hạn chế 
từ kinh tế nông nghiệp. Lái buôn người Anh, 
Thomas Bowyear, có mặt tại Đàng Trong thời 
chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), đã cho 
biết các mặt hàng được đưa tới Đàng Trong từ 
các quốc gia Đông Nam Á như sau: “Từ Xiêm: 
lá trầu không, gỗ đỏ, sơn, xà cừ, ngà voi, thiếc, 
chì, gạo; từ Campuchia: thư hoàng, cánh kiến 
trắng, sa nhân, sáp, sơn, xà cừ, gỗ đỏ, dựa 
thông, da trâu, da và gân hươu, ngà voi, sừng 
tê; từ Batavia: bạc, bạch đàn, trầu không, vải 
cát bá đỏ và trắng, thuốc màu đỏ; từ Manila: 
bạc, diêm sinh, gỗ đỏ, vỏ sò, thuốc hút, sáp, 
gân hươu”. Còn những mặt hàng “Đàng Trong 
bán ra: vàng, sắt, tơ và hàng tơ dệt, như lĩnh, 
lụa, kỳ nam, trầm hương, đường, đường 
phèn, yến sào, hạt tiêu, bông” [26, tr.227]. 
Cùng với những hệ quả do Kỷ nguyên Đại 
thương mại mang lại, môi trường quốc tế của 
Đàng Trong còn được tác động bởi những thay 
đổi trong chính sách thương mại của hai quốc gia 
lớn trong khu vực Đông Bắc Á đó là Trung Hoa và 
Nhật Bản. Sau gần 200 năm (1371 - 1567) thực 
hiện chính sách Hải cấm, năm 1567, hoàng đế 
nhà Minh đã cho phép những thuyền mành 
của người Hoa vượt biển buôn bán với các 
nước Đông Nam Á, nhưng vẫn nghiêm cấm 
hoạt động giao thương với Nhật Bản. Hệ quả 
to lớn của chính sách này là sự thiếu hụt hàng 
hóa của người Hoa tại thị trường Nhật Bản. 
Trong bối cảnh khan hiếm các hàng hóa xa xỉ 
phẩm, người Nhật buộc phải cho thuyền tới 
các cảng thị Đông Nam Á để thu mua hàng 
hóa mà Hoa thương mang tới đây. Xuất phát từ 
mục đích đó, từ năm 1592, Mạc phủ Nhật Bản 
đã cấp giấy phép cho thuyền buôn của người 
Nhật, gọi là Châu ấn thuyền (Shuisen) (1592 
- 1634), nhằm thừa nhận, mở rộng quan hệ 
buôn bán hợp pháp với các nước Đông Nam 
Á và tiến hành mua hàng của người Hoa tại thị 
trường phương Nam. Được hậu thuẫn bởi giấy 
thông hành của chính quyền Mạc phủ, các tàu 
Nhật bắt đầu tới nhiều cảng thị khác nhau ở 
Đông Nam Á, chủ yếu là tới các cảng nằm phía 
bắc vĩ tuyến 10 như Hà Nội, Hội An, Phnom 
Pênh, Ayutthaya và Manila, nơi các thuyền bè 
của người Hoa cũng đến để trao đổi, buôn bán 
[19, tr.256]. Trong các điểm đến của thuyền 
buôn “Châu ấn” tại thị trường Đông Nam Á thì 
thương cảng quốc tế Hội An của Đàng Trong 
là một trong những điểm đến có sức hấp dẫn 
nhất với thương thuyền Nhật Bản. Sự xuất hiện 
của nhiều thuyền “Châu ấn” phải chăng là lý do 
giáo sĩ người Ý Christophoro Borri, khi truyền 
giáo tại Đàng Trong từ năm 1618 - 1621, đã 
khẳng định “người Tàu và người Nhật là những 
người làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng 
Trong” [9, tr.90]. 
Cũng trong mạng lưới thương mại “Nội Á” 
này, hệ thống thương cảng Đàng Trong trở 
thành điểm giao thương mạnh mẽ của người 
Hoa. Có mặt ở Đàng Trong những năm 1770, 
học giả Lê Quý Đôn cho thấy vị trí chiến lược 
của xứ Thuận Quảng với thị trường phía nam 
Trung Hoa như sau: “Xứ Thuận Hóa, đường 
thủy đường bộ liên tiếp với xứ Quảng Nam, 
phía hữu xứ Quảng Nam lại thông với các 
nước phiên, về đường biển thì cách các tỉnh 
Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông không đến 3, 4 
ngày. Cho nên thuyền buôn từ trước đến tụ 
hội ở đấy” [11, tr.299]. Vào thế kỷ XVIII, trong 
một ghi chép của người Pháp cũng cho biết 
thêm: “Những chuyến giao thương với Trung 
Quốc đã trở thành bất lợi vì đến nay, người 
Trung Quốc không còn thích mua hàng hóa 
Âu châu. Như vậy, chúng ta phải mang tiền 
đến mới chắc có được hàng hóa mà chở về, và 
người bỏ vốn cho thương thuyền chỉ kiếm lợi 
được ở chuyến về mà thôi. Chỉ cần cập bến độ 
hai tháng ở xứ Đàng Trong đủ cứu vãn được 
sự thiệt thòi này, lại còn có thể gia tăng được 
một số lợi bằng phân nửa số lợi tìm được trong 
cuộc mậu dịch với Trung Quốc. Các thương 
thuyền của Pháp nếu qua đây, thì trước hết 
cần mua các loại sản phẩm như: đường, ngà 
voi, gỗ lim, vàng ở Hội An, rồi từ đấy chở qua 
Quảng Đông. Công ty cần có một nhân viên, 
ở ngay tại Hội An, để học tiếng bản xứ và tìm 
mua vàng vào mùa đông, vì vào thời gian này, 
vàng thường được bán lẻ và giá rẻ hơn rất 
nhiều so với giá vàng trong các tháng có gió 
Số 31 (Tháng 3 - 2020)56
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
mùa. Vàng này được đưa qua Quảng Đông có 
thể kiếm lời được 100%” [10, tr.67-68]. 
Cùng với những bạn hàng từ các nước 
Đông Bắc Á, vào thế kỷ XVI - XVII, cả Đàng 
Ngoài và Đàng Trong đều trở thành những 
thị trường quan trọng trong mạng lưới giao 
thương “Nội Á” của người phương Tây [20]. 
Tư liệu về mối giao thương tốt đẹp của chúa 
Trịnh và các công ty Đông Ấn hay sự chủ động 
của chúa Nguyễn trong việc thiết lập quan hệ 
thương mại với người phương Tây đã cho thấy 
rằng, các chính thể của Đại Việt đều rất năng 
động, tham gia tích cực vào thị trường quốc 
tế. Mặc dù thực tế hoạt động thương mại giữa 
chính quyền Đàng Trong với người Hà Lan, 
người Anh không có được thành công như tại 
Đàng Ngoài [21], nhưng không thể phủ nhận 
rằng, sự hiện diện của người phương Tây trên 
các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong, dù là 
với mục đích thương mại hay truyền giáo, đã 
mang đến những tác động mới mẻ lên cả kinh 
tế và văn hóa của xứ Thuận - Quảng. Bờ biển 
Đàng Trong đã trở thành thị trường kết nối lý 
tưởng cho mạng lưới của các Công ty Đông 
Ấn, thương nhân có thể mua thêm hàng hóa 
tại đây hoặc tiến hành các hoạt động sửa chữa 
tàu thuyền, lấy thêm nước ngọt,... cho những 
chuyến hành trình dài hơn đến vùng biển Tây 
hay ngang qua biển Nam Trung Hoa. Trong 
mạng lưới giao thương được thiết lập chặt 
chẽ, hệ thống, vận hành một cách khoa học ấy, 
nhiều thương cảng của Đàng Trong đã chuyển 
biến vai trò của mình từ trung tâm liên vùng 
trở thành trung tâm liên thế giới. Điều này có 
thể thấy rõ trong hoạt động của thương cảng 
Hội An, nơi diễn ra sự giao lưu kinh tế, văn hóa 
quốc tế mạnh mẽ nhất tại Đàng Trong. 
2. Hoạt động giao lưu văn hóa đa dạng tại 
Đàng Trong 
Khác biệt về nền tảng kinh tế, văn hóa của 
vùng đất mới khiến chúa Nguyễn cùng những 
di dân từ Đàng Ngoài cũng trở thành những 
“người ngoại quốc” tại Đàng Trong. Việc “thu 
phục nhân tâm”, tạo dựng niềm tin với cư dân 
bản địa cùng những người mới đến là thách 
thức rất lớn mà chúa Nguyễn phải đương đầu 
trong buổi đầu khởi nghiệp. Những quyết định 
đầu tiên trong việc khẳng định vị trí của mình 
ở bên kia dãy Hoàng Sơn đã cho thấy tầm 
nhìn vượt thời đại của chúa Nguyễn. Là người 
thuộc dòng dõi quý tộc, trưởng thành từ nền 
giáo dục Nho giáo nhưng chúa Nguyễn Hoàng 
(1558 - 1613) lại có cái nhìn cởi mở, mềm dẻo, 
thích ứng nhanh chóng với những đặc trưng 
văn hóa của xứ Thuận Hóa. Thay vì áp đặt một 
mô hình Nho giáo có phần khuôn mẫu và 
cứng nhắc, ông lại lựa chọn Phật giáo làm bệ 
đỡ về mặt tư tưởng cho thiết chế chính trị non 
trẻ, đang trong quá trình tạo dựng của mình. 
Tư tưởng từ bi, khoan dung của đạo Phật chắc 
chắn đã góp phần rất lớn vào việc trấn an tinh 
thần cho những người dân xa xứ tha hương 
từ Đàng Ngoài, đồng thời cũng dễ dàng hòa 
nhập vào tín ngưỡng của cư dân bản địa. 
Một trong những việc làm khẳng định việc 
“Việt hóa” những vị thần của vùng đất mới đó 
là chỉ sau một năm khi trở về từ Đàng Ngoài 
năm 1601 [15], Nguyễn Hoàng đã cho xây 
dựng chùa Thiên Mụ bên bờ sông Hương4. Kể 
từ đây, Phật giáo trở thành bệ đỡ tinh thần, 
tôn giáo quan trọng nhất của Đàng Trong. Các 
chúa Nguyễn kế nghiệp đều hết sức tôn sùng 
Phật giáo và luôn lấy giáo lý mềm dẻo, uyển 
chuyển của đạo Phật làm phương châm trong 
ứng đối của mình. Điều đặc biệt là, chùa Thiên 
Mụ lại nằm trên một cụm tháp cổ của người 
Chăm [24, tr.413]. Khi nghiên cứu những di 
sản văn hóa Chăm Pa tại miền Trung Việt Nam, 
nhà khảo cổ học Federico Barocco đã áp dụng 
một phương pháp nghiên cứu rất thú vị, đó là 
“Lịch sử nhìn từ phong cảnh”5 (History view 
from Landscape). Tác giả cho rằng “các công 
trình tôn giáo thường có vị trí ổn định, hay 
nói cách khác, nó thường được xây dựng lại 
tại chính vị trí mà nó đã bị phá hủy”. Đặt trong 
bối cảnh dựng nghiệp của họ Nguyễn, việc 
Nguyễn Hoàng cho xây dựng trung tâm Phật 
giáo của Đàng Trong trên đúng vùng đất linh 
thiêng của người Chăm không chỉ thể hiện 
việc khẳng định vị thế của Phật giáo đối với 
những người mới đến mà còn cho thấy những 
57Số 31 (Tháng 3 - 2020)
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
 VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI
cố gắng trong việc hòa nhập với tín ngưỡng 
bản địa của vùng đất mới. Thực tế đã cho thấy, 
chùa Thiên Mụ bên dòng sông Hương đã trở 
thành trung tâm Phật giáo lớn nhất của Đàng 
Trong và cả nhà Nguyễn sau này.
Cùng với việc tạo dựng niềm tin, bệ đỡ về 
mặt tinh thần, khẳng định vị thế của mình 
trong nền văn hóa bản địa của Đàng Trong, 
chúa Nguyễn còn rất cởi mở trong việc tiếp nhận 
những giá trị văn hóa mới. Như đã phân tích chi 
tiết ở trên, Đàng Trong vào thế kỷ XVI - XVIII 
đã trở thành môi trường quốc tế đa dạng cho 
các hoạt động thương mại. Hệ thống thương 
cảng Đàng Trong trở thành điểm đến lý tưởng 
cho những hoạt động giao thương và giao lưu 
văn hóa. Mặc dù có những ưu ái trong việc 
lựa chọn đối tác thương mại của Đàng Trong 
nhưng chúa Nguyễn đều là người giữ thế chủ 
động trong các mối giao thương này. Số liệu 
thống kê về số lượng thuyền “Châu ấn” đến 
giao thương tại Đông Nam Á đã khẳng định 
Hội An - thương cảng quốc tế lớn nhất của 
Đàng Trong, là điểm đến thường xuyên của 
người Nhật. Trong mối quan hệ với người Nhật, 
chúa Nguyễn đã cho thấy lối ứng đối ngoại 
giao mềm dẻo, lịch thiệp của mình. Không chỉ 
tạo điều kiện cho người Nhật đến giao thương, 
cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, chúa 
Nguyễn còn cho phép người Nhật được cư trú 
lâu dài tại Hội An để tiện cho việc thông thương 
[12]. Thông qua việc chủ động viết thư cho 
Mạc phủ Nhật Bản6 hay gả con gái của mình 
cho thương nhân Nhật Bản, chúa Nguyễn đã 
khẳng định tư tưởng cởi mở, thịnh tình mong 
muốn các thương nhân từ xứ sở Phù Tang đến 
Đàng Trong giao thương. Trong khoảng 30 
năm đầu của thế kỷ XVII, Nhật Bản là đối tác 
quan trọng và có mối giao thương vô cùng tốt 
đẹp với chính quyền Thuận Hóa. Tuy nhiên, do 
những biến động của tình hình chính trị trong 
nước, Mạc phủ đã thực hiện chính sách Toả 
quốc7 (Sakoku, 1639 - 1853) kéo dài hơn 200 
năm. Sự kiện này đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ 
đến thị trường các quốc gia Đông Nam Á và 
các thương cảng của Đàng Trong, nơi có người 
Nhật cư trú đông đảo. 
Trong bối cảnh ấy, chúa Nguyễn đã lựa 
chọn người Hoa trở thành đối tác thương mại 
quan trọng nhất để bù đắp những tổn thất 
trong mối giao thương với người Nhật. Thực tế 
thì người Hoa, vốn gần gũi về mặt địa lý, giàu 
kinh nghiệm giao thương đã là những thương 
nhân tích cực và năng động nhất của Đàng 
Trong. Cùng với việc cho người Nhật cư trú tại 
Hội An, chúa Nguyễn cũng cho phép người 
Hoa định cư lâu dài tại đây. Những số liệu cho 
thấy khi người Nhật suy giảm vị thế của mình 
tại Đàng Trong thì dường như thương mại đã 
được chuyển qua tay người Hoa. Theo báo 
cáo được gửi cho Công ty Đông Ấn Hà Lan 
vào ngày 28 tháng 3 năm 1642 của Francisco 
Groemon, người đã sống ở Hội An hơn 10 năm, 
thì số lượng người Hoa tại đây là 4.000 đến 
5.000 người, trong khi người Nhật chỉ còn 40 
đến 50 người. Nói cách khác, vào đầu những 
năm 1640, người Hoa tại Hội An đông hơn 
người Nhật Bản gần 100 lần [8, tr.299]. Hệ quả 
lớn nhất của sự suy giảm này đó là thương mại 
giữa Đàng Trong và Nhật Bản đã được chuyển 
sang tay người Hoa. Hoa thương vốn thông 
thạo thị trường buôn bán, ngày càng trở thành 
những thương nhân giữ vị trí then chốt, năng 
động trong các hoạt động giao thương tại xứ 
Thuận - Quảng.
Một trong những hành động thể hiện chiến 
lược ngoại giao đa dạng của chính quyền 
Thuận Hóa đó là cho phép người Hoa được 
khai phá vùng đất phía nam của Đàng Trong. 
Trước những biến động chính trị mạnh mẽ khi 
nhà Thanh (1644 - 1911) thay thế nhà Minh 
(1368 - 1644) cầm quyền tại Trung Quốc, vào 
năm 1679, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần 
(cq: 1648 - 1687) đã cho phép những người 
Hoa tị nạn, đứng đầu là Trần Thượng Xuyên 
được vào khai phá vùng đất Nam Bộ8. Trước 
những tiềm lực phát triển của vùng đất mới, 
vị thế người Hoa ngày càng cao, chúa Nguyễn 
đã đi đến một quyết định táo bạo đó là thiết 
lập quyền quản lý hành chính lên vùng đất Gia 
Định, thông qua việc thành lập phủ Gia Định 
năm 1698. Bên cạnh đó, chúa Nguyễn Phúc 
Chu còn tổ chức người Hoa thành những đơn 
Số 31 (Tháng 3 - 2020)58
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vị cư trú chặt chẽ, quy củ hơn, chúa Nguyễn 
đã “lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấ