Chúa Nguyễn và những hoạt động giao lưu văn hóa tại Đàng Trong thế kỷ XVI - XVIII

Tóm tắt Thế kỷ XVI - XVIII là một trong những giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Trái với hình ảnh đất nước đau thương do sự chia cắt giữa Đàng Ngoài - Đàng Trong và cuộc nội chiến giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, đây là giai đoạn chứng kiến sự hội nhập, giao lưu văn hóa mạnh mẽ nhất của các chính thể phong kiến Việt Nam thời trung đại. Chúa Nguyễn với tầm nhìn và chính sách hướng biển mạnh mẽ đã không ngừng khuyến khích, tham gia vào các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa trong khu vực và quốc tế. Các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong đã trở thành cửa ngõ đón nhận những hoạt động giao lưu văn hóa đa chiều này. Đặt trong dòng chảy tiếp giao văn hóa không ngừng, bài viết góp phần tái hiện môi trường quốc tế đa dạng của xứ Thuận - Quảng và đánh giá lại một số chính sách của chúa Nguyễn khi là chất xúc tác quan trọng, tạo đà cho sự hội nhập của Đàng Trong hơn hai thế kỷ

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 395 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chúa Nguyễn và những hoạt động giao lưu văn hóa tại Đàng Trong thế kỷ XVI - XVIII, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
53Số 31 (Tháng 3 - 2020) NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI CHÚA NGUYỄN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG GIAO LƯU VĂN HÓA TẠI ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVI - XVIII VŨ THỊ XUYẾN* Tóm tắt Thế kỷ XVI - XVIII là một trong những giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Trái với hình ảnh đất nước đau thương do sự chia cắt giữa Đàng Ngoài - Đàng Trong và cuộc nội chiến giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, đây là giai đoạn chứng kiến sự hội nhập, giao lưu văn hóa mạnh mẽ nhất của các chính thể phong kiến Việt Nam thời trung đại. Chúa Nguyễn với tầm nhìn và chính sách hướng biển mạnh mẽ đã không ngừng khuyến khích, tham gia vào các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa trong khu vực và quốc tế. Các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong đã trở thành cửa ngõ đón nhận những hoạt động giao lưu văn hóa đa chiều này. Đặt trong dòng chảy tiếp giao văn hóa không ngừng, bài viết góp phần tái hiện môi trường quốc tế đa dạng của xứ Thuận - Quảng và đánh giá lại một số chính sách của chúa Nguyễn khi là chất xúc tác quan trọng, tạo đà cho sự hội nhập của Đàng Trong hơn hai thế kỷ. Từ khóa: Đàng Trong, chúa Nguyễn, giao lưu văn hoá, tiếp xúc văn hóa Abstract The XVI - XVIII century is one of the special periods of Vietnamese history. Contrary to the image of the country grieved by the partition between Dang Ngoai (the north) and Dang Trong (the south) and the civil war between Lord Trinh and Lord Nguyen, this was the period that witnessed the most powerful integration and cultural exchange of the feudal system of Vietnam in the Middle Ages. Lord Nguyen, with his strong vision and sea-orientating policy, had constantly encouraged and participated in regional and international economic and cultural exchanges. The urban ports along the coasts of Dang Trong had become the gateway to welcome these multidimensional cultural exchanges. Set in the constant flow of cultural communication, the article contributes to re-enacting the diverse international environment of Thuan - Quang area and re-evaluating some of Lord Nguyen’s policies as an important catalyst, creating momentum for the integration of Dang Trong for more than two centuries. Keywords: Dang Trong, Lord Nguyen, cultural exchanges, cultural contacts Hoạt động giao lưu, tiếp biến văn hóa là nhu cầu thiết yếu của mỗi quốc gia trong tiến trình xây dựng, phát triển và khẳng định bản sắc. Nằm tiếp giáp với một trong những trung tâm văn minh lớn của nhân loại và cũng là một trong hai trung tâm văn hóa văn minh lớn, tiêu biểu nhất của phương Đông, cho nên, điều dễ hiểu là từ rất sớm văn minh Trung Hoa đã có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam1. Không thể phủ nhận rằng, nhiều đặc điểm tương đồng về thiết chế chính trị, cấu trúc xã hội, văn hóa của người Việt là hệ quả của quá trình “va chạm” với văn minh Trung Hoa2. Tuy nhiên, cũng trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của người Việt, cùng với việc kiến lập một quốc gia độc lập, có đường biên giới rạch VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI * ThS., Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN Số 31 (Tháng 3 - 2020)54 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA ròi, đặc tính văn hóa riêng biệt với phương Bắc, thì đặc điểm nổi trội trong quá trình hình thành và phát triển lãnh thổ của Đại Việt đó là sự mở rộng không ngừng về phương Nam. Hành trình hàng thế kỷ tiến về phía nam đó, trước hết là một sự “kéo giãn” tự nhiên trước áp lực dân số ngày càng tăng của đồng bằng sông Hồng, là “chiến lược” làm giảm đi ảnh hưởng của nền văn minh phương Bắc vốn liên tục gây sức ép với các chính thể phong kiến Việt Nam. Hay theo quan điểm của nhiều học giả, việc tiến về phía nam của người Việt là quá trình “giải Hoa hóa” trong văn hóa Việt Nam. Không chỉ là quá trình mở rộng, sáp nhập những không gian địa lý khác nhau, việc tiến về phía nam còn là cơ hội để người Việt thâu nhận, tiếp giao các giá trị mới từ phương Nam, làm đa dạng văn hóa của mình. Trong sự tiếp xúc và thẩm thấu không ngừng đó thì thế kỷ XVI - XVIII, trái với hình ảnh đau thương do sự chia cắt giữa Đàng Ngoài (Tonkin) - Đàng Trong (Cochinchina), giữa chúa Trịnh - chúa Nguyễn, đây lại là giai đoạn biên giới của Đại Việt được mở rộng mạnh mẽ nhất. Với tầm nhìn vượt thời đại, thực thi hàng loạt chính sách cởi mở, hướng biển, các chúa Nguyễn Đàng Trong (1558 - 1777) từ thế cuộc chính trị bị động đã trở thành những người chủ động kiến lập một vương quốc, một mô hình độc lập với Đàng Ngoài. Trên điều kiện địa lý nhiều thuận lợi cho các hoạt động giao lưu kinh tế biển, nắm bắt nhanh chóng những xung lực do bối cảnh khu vực và quốc tế mang lại, cùng chính sách thoáng mở, Đàng Trong đã tạo dựng môi trường quốc tế năng động cho các hoạt động trao đổi, buôn bán, tương tác về mặt văn hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử, văn hóa Việt Nam ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài được định vị không chỉ bởi nhân tố Trung Hoa truyền thống mà còn có sự đóng góp to lớn của người Nhật, người Đông Nam Á, và cả người phương Tây. Trao đổi thương mại kéo theo hoạt động giao lưu về mặt văn hóa đã mang đến cho chúa Nguyễn Đàng Trong, dù là người đến sau nhưng có vai trò then chốt hồi sinh những di sản của người Chăm trước đây [7]. Môi trường hội nhập quốc tế đa dạng được thúc đẩy bởi các chính sách của chúa Nguyễn là chất xúc tác cho sự phát triển của những hoạt động giao lưu, tiếp xúc văn hóa tại Đàng Trong thế kỷ XVI - XVIII. 1. Môi trường quốc tế đa dạng tại Đàng Trong Với vị trí địa lý và tài nguyên thuận lợi cho thương nghiệp, từ xa xưa, chủ nhân của dải đất miền Trung đã biết dựa vào biển, khai thác nguồn lợi của biển để bù đắp những thiếu hụt, hạn chế của ngành kinh tế “bản lề” nông nghiệp. Không thể phủ nhận rằng, chủ nhân của nền văn minh Chăm Pa - người tiền nhiệm trên không gian lãnh thổ của chúa Nguyễn, là những cư dân sống dựa vào biển điển hình [25]. Hình ảnh tháp Chàm nguy nga, lộng lẫy - di sản văn hóa vô giá của người Chăm, nằm duyên dáng đan xen vào màu xanh của núi rừng, trải khắp dải đất miền Trung là minh chứng rõ ràng cho tiềm lực kinh tế vững mạnh của người Chăm [3, tr.107-125]. Sức mạnh kinh tế ấy chắc chắn không chỉ từ nguồn thu của ngành nông nghiệp, mà còn có sự đóng góp rất lớn của nguồn lợi từ rừng, từ những mối quan hệ thương mại giữa biển và lục địa điển hình của người Chăm. Là những người đến sau, trong thế cuộc chính trị bất ổn, chúa Nguyễn đã rất nhạy bén kế thừa các thành tựu, kinh nghiệm của người Chăm trước đây khi xây dựng bệ đỡ về mặt kinh tế cho chính thể của mình3. Trước những tác động mạnh mẽ của thị trường quốc tế do Kỷ nguyên Đại thương mại [4] mang lại, chúa Nguyễn cũng đặt cược thể chế của mình trên nền tảng kinh tế ngoại thương, đặc biệt là các mối giao thương trên biển. Có thể khẳng định rằng, chính nhờ việc phát huy hiệu quả điều kiện thuận lợi của yếu tố ngoại sinh và nội sinh, chúa Nguyễn đã mang đến một tiềm lực phát triển mới cho vùng đất vốn được coi là chốn Ô châu ác địa. Khai thác vị trí trung gian của các cảng thị trong mạng lưới thương mại khu vực, thông qua hệ thống thuế khóa được quy định rõ ràng đối với tàu thuyền ngoại quốc đến và 55Số 31 (Tháng 3 - 2020) NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI đi [23, tr.165], chúa Nguyễn đã thu được nguồn tài chính rất lớn, bổ sung cho những hạn chế từ kinh tế nông nghiệp. Lái buôn người Anh, Thomas Bowyear, có mặt tại Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), đã cho biết các mặt hàng được đưa tới Đàng Trong từ các quốc gia Đông Nam Á như sau: “Từ Xiêm: lá trầu không, gỗ đỏ, sơn, xà cừ, ngà voi, thiếc, chì, gạo; từ Campuchia: thư hoàng, cánh kiến trắng, sa nhân, sáp, sơn, xà cừ, gỗ đỏ, dựa thông, da trâu, da và gân hươu, ngà voi, sừng tê; từ Batavia: bạc, bạch đàn, trầu không, vải cát bá đỏ và trắng, thuốc màu đỏ; từ Manila: bạc, diêm sinh, gỗ đỏ, vỏ sò, thuốc hút, sáp, gân hươu”. Còn những mặt hàng “Đàng Trong bán ra: vàng, sắt, tơ và hàng tơ dệt, như lĩnh, lụa, kỳ nam, trầm hương, đường, đường phèn, yến sào, hạt tiêu, bông” [26, tr.227]. Cùng với những hệ quả do Kỷ nguyên Đại thương mại mang lại, môi trường quốc tế của Đàng Trong còn được tác động bởi những thay đổi trong chính sách thương mại của hai quốc gia lớn trong khu vực Đông Bắc Á đó là Trung Hoa và Nhật Bản. Sau gần 200 năm (1371 - 1567) thực hiện chính sách Hải cấm, năm 1567, hoàng đế nhà Minh đã cho phép những thuyền mành của người Hoa vượt biển buôn bán với các nước Đông Nam Á, nhưng vẫn nghiêm cấm hoạt động giao thương với Nhật Bản. Hệ quả to lớn của chính sách này là sự thiếu hụt hàng hóa của người Hoa tại thị trường Nhật Bản. Trong bối cảnh khan hiếm các hàng hóa xa xỉ phẩm, người Nhật buộc phải cho thuyền tới các cảng thị Đông Nam Á để thu mua hàng hóa mà Hoa thương mang tới đây. Xuất phát từ mục đích đó, từ năm 1592, Mạc phủ Nhật Bản đã cấp giấy phép cho thuyền buôn của người Nhật, gọi là Châu ấn thuyền (Shuisen) (1592 - 1634), nhằm thừa nhận, mở rộng quan hệ buôn bán hợp pháp với các nước Đông Nam Á và tiến hành mua hàng của người Hoa tại thị trường phương Nam. Được hậu thuẫn bởi giấy thông hành của chính quyền Mạc phủ, các tàu Nhật bắt đầu tới nhiều cảng thị khác nhau ở Đông Nam Á, chủ yếu là tới các cảng nằm phía bắc vĩ tuyến 10 như Hà Nội, Hội An, Phnom Pênh, Ayutthaya và Manila, nơi các thuyền bè của người Hoa cũng đến để trao đổi, buôn bán [19, tr.256]. Trong các điểm đến của thuyền buôn “Châu ấn” tại thị trường Đông Nam Á thì thương cảng quốc tế Hội An của Đàng Trong là một trong những điểm đến có sức hấp dẫn nhất với thương thuyền Nhật Bản. Sự xuất hiện của nhiều thuyền “Châu ấn” phải chăng là lý do giáo sĩ người Ý Christophoro Borri, khi truyền giáo tại Đàng Trong từ năm 1618 - 1621, đã khẳng định “người Tàu và người Nhật là những người làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng Trong” [9, tr.90]. Cũng trong mạng lưới thương mại “Nội Á” này, hệ thống thương cảng Đàng Trong trở thành điểm giao thương mạnh mẽ của người Hoa. Có mặt ở Đàng Trong những năm 1770, học giả Lê Quý Đôn cho thấy vị trí chiến lược của xứ Thuận Quảng với thị trường phía nam Trung Hoa như sau: “Xứ Thuận Hóa, đường thủy đường bộ liên tiếp với xứ Quảng Nam, phía hữu xứ Quảng Nam lại thông với các nước phiên, về đường biển thì cách các tỉnh Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông không đến 3, 4 ngày. Cho nên thuyền buôn từ trước đến tụ hội ở đấy” [11, tr.299]. Vào thế kỷ XVIII, trong một ghi chép của người Pháp cũng cho biết thêm: “Những chuyến giao thương với Trung Quốc đã trở thành bất lợi vì đến nay, người Trung Quốc không còn thích mua hàng hóa Âu châu. Như vậy, chúng ta phải mang tiền đến mới chắc có được hàng hóa mà chở về, và người bỏ vốn cho thương thuyền chỉ kiếm lợi được ở chuyến về mà thôi. Chỉ cần cập bến độ hai tháng ở xứ Đàng Trong đủ cứu vãn được sự thiệt thòi này, lại còn có thể gia tăng được một số lợi bằng phân nửa số lợi tìm được trong cuộc mậu dịch với Trung Quốc. Các thương thuyền của Pháp nếu qua đây, thì trước hết cần mua các loại sản phẩm như: đường, ngà voi, gỗ lim, vàng ở Hội An, rồi từ đấy chở qua Quảng Đông. Công ty cần có một nhân viên, ở ngay tại Hội An, để học tiếng bản xứ và tìm mua vàng vào mùa đông, vì vào thời gian này, vàng thường được bán lẻ và giá rẻ hơn rất nhiều so với giá vàng trong các tháng có gió Số 31 (Tháng 3 - 2020)56 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA mùa. Vàng này được đưa qua Quảng Đông có thể kiếm lời được 100%” [10, tr.67-68]. Cùng với những bạn hàng từ các nước Đông Bắc Á, vào thế kỷ XVI - XVII, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều trở thành những thị trường quan trọng trong mạng lưới giao thương “Nội Á” của người phương Tây [20]. Tư liệu về mối giao thương tốt đẹp của chúa Trịnh và các công ty Đông Ấn hay sự chủ động của chúa Nguyễn trong việc thiết lập quan hệ thương mại với người phương Tây đã cho thấy rằng, các chính thể của Đại Việt đều rất năng động, tham gia tích cực vào thị trường quốc tế. Mặc dù thực tế hoạt động thương mại giữa chính quyền Đàng Trong với người Hà Lan, người Anh không có được thành công như tại Đàng Ngoài [21], nhưng không thể phủ nhận rằng, sự hiện diện của người phương Tây trên các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong, dù là với mục đích thương mại hay truyền giáo, đã mang đến những tác động mới mẻ lên cả kinh tế và văn hóa của xứ Thuận - Quảng. Bờ biển Đàng Trong đã trở thành thị trường kết nối lý tưởng cho mạng lưới của các Công ty Đông Ấn, thương nhân có thể mua thêm hàng hóa tại đây hoặc tiến hành các hoạt động sửa chữa tàu thuyền, lấy thêm nước ngọt,... cho những chuyến hành trình dài hơn đến vùng biển Tây hay ngang qua biển Nam Trung Hoa. Trong mạng lưới giao thương được thiết lập chặt chẽ, hệ thống, vận hành một cách khoa học ấy, nhiều thương cảng của Đàng Trong đã chuyển biến vai trò của mình từ trung tâm liên vùng trở thành trung tâm liên thế giới. Điều này có thể thấy rõ trong hoạt động của thương cảng Hội An, nơi diễn ra sự giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế mạnh mẽ nhất tại Đàng Trong. 2. Hoạt động giao lưu văn hóa đa dạng tại Đàng Trong Khác biệt về nền tảng kinh tế, văn hóa của vùng đất mới khiến chúa Nguyễn cùng những di dân từ Đàng Ngoài cũng trở thành những “người ngoại quốc” tại Đàng Trong. Việc “thu phục nhân tâm”, tạo dựng niềm tin với cư dân bản địa cùng những người mới đến là thách thức rất lớn mà chúa Nguyễn phải đương đầu trong buổi đầu khởi nghiệp. Những quyết định đầu tiên trong việc khẳng định vị trí của mình ở bên kia dãy Hoàng Sơn đã cho thấy tầm nhìn vượt thời đại của chúa Nguyễn. Là người thuộc dòng dõi quý tộc, trưởng thành từ nền giáo dục Nho giáo nhưng chúa Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) lại có cái nhìn cởi mở, mềm dẻo, thích ứng nhanh chóng với những đặc trưng văn hóa của xứ Thuận Hóa. Thay vì áp đặt một mô hình Nho giáo có phần khuôn mẫu và cứng nhắc, ông lại lựa chọn Phật giáo làm bệ đỡ về mặt tư tưởng cho thiết chế chính trị non trẻ, đang trong quá trình tạo dựng của mình. Tư tưởng từ bi, khoan dung của đạo Phật chắc chắn đã góp phần rất lớn vào việc trấn an tinh thần cho những người dân xa xứ tha hương từ Đàng Ngoài, đồng thời cũng dễ dàng hòa nhập vào tín ngưỡng của cư dân bản địa. Một trong những việc làm khẳng định việc “Việt hóa” những vị thần của vùng đất mới đó là chỉ sau một năm khi trở về từ Đàng Ngoài năm 1601 [15], Nguyễn Hoàng đã cho xây dựng chùa Thiên Mụ bên bờ sông Hương4. Kể từ đây, Phật giáo trở thành bệ đỡ tinh thần, tôn giáo quan trọng nhất của Đàng Trong. Các chúa Nguyễn kế nghiệp đều hết sức tôn sùng Phật giáo và luôn lấy giáo lý mềm dẻo, uyển chuyển của đạo Phật làm phương châm trong ứng đối của mình. Điều đặc biệt là, chùa Thiên Mụ lại nằm trên một cụm tháp cổ của người Chăm [24, tr.413]. Khi nghiên cứu những di sản văn hóa Chăm Pa tại miền Trung Việt Nam, nhà khảo cổ học Federico Barocco đã áp dụng một phương pháp nghiên cứu rất thú vị, đó là “Lịch sử nhìn từ phong cảnh”5 (History view from Landscape). Tác giả cho rằng “các công trình tôn giáo thường có vị trí ổn định, hay nói cách khác, nó thường được xây dựng lại tại chính vị trí mà nó đã bị phá hủy”. Đặt trong bối cảnh dựng nghiệp của họ Nguyễn, việc Nguyễn Hoàng cho xây dựng trung tâm Phật giáo của Đàng Trong trên đúng vùng đất linh thiêng của người Chăm không chỉ thể hiện việc khẳng định vị thế của Phật giáo đối với những người mới đến mà còn cho thấy những 57Số 31 (Tháng 3 - 2020) NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI cố gắng trong việc hòa nhập với tín ngưỡng bản địa của vùng đất mới. Thực tế đã cho thấy, chùa Thiên Mụ bên dòng sông Hương đã trở thành trung tâm Phật giáo lớn nhất của Đàng Trong và cả nhà Nguyễn sau này. Cùng với việc tạo dựng niềm tin, bệ đỡ về mặt tinh thần, khẳng định vị thế của mình trong nền văn hóa bản địa của Đàng Trong, chúa Nguyễn còn rất cởi mở trong việc tiếp nhận những giá trị văn hóa mới. Như đã phân tích chi tiết ở trên, Đàng Trong vào thế kỷ XVI - XVIII đã trở thành môi trường quốc tế đa dạng cho các hoạt động thương mại. Hệ thống thương cảng Đàng Trong trở thành điểm đến lý tưởng cho những hoạt động giao thương và giao lưu văn hóa. Mặc dù có những ưu ái trong việc lựa chọn đối tác thương mại của Đàng Trong nhưng chúa Nguyễn đều là người giữ thế chủ động trong các mối giao thương này. Số liệu thống kê về số lượng thuyền “Châu ấn” đến giao thương tại Đông Nam Á đã khẳng định Hội An - thương cảng quốc tế lớn nhất của Đàng Trong, là điểm đến thường xuyên của người Nhật. Trong mối quan hệ với người Nhật, chúa Nguyễn đã cho thấy lối ứng đối ngoại giao mềm dẻo, lịch thiệp của mình. Không chỉ tạo điều kiện cho người Nhật đến giao thương, cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, chúa Nguyễn còn cho phép người Nhật được cư trú lâu dài tại Hội An để tiện cho việc thông thương [12]. Thông qua việc chủ động viết thư cho Mạc phủ Nhật Bản6 hay gả con gái của mình cho thương nhân Nhật Bản, chúa Nguyễn đã khẳng định tư tưởng cởi mở, thịnh tình mong muốn các thương nhân từ xứ sở Phù Tang đến Đàng Trong giao thương. Trong khoảng 30 năm đầu của thế kỷ XVII, Nhật Bản là đối tác quan trọng và có mối giao thương vô cùng tốt đẹp với chính quyền Thuận Hóa. Tuy nhiên, do những biến động của tình hình chính trị trong nước, Mạc phủ đã thực hiện chính sách Toả quốc7 (Sakoku, 1639 - 1853) kéo dài hơn 200 năm. Sự kiện này đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường các quốc gia Đông Nam Á và các thương cảng của Đàng Trong, nơi có người Nhật cư trú đông đảo. Trong bối cảnh ấy, chúa Nguyễn đã lựa chọn người Hoa trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất để bù đắp những tổn thất trong mối giao thương với người Nhật. Thực tế thì người Hoa, vốn gần gũi về mặt địa lý, giàu kinh nghiệm giao thương đã là những thương nhân tích cực và năng động nhất của Đàng Trong. Cùng với việc cho người Nhật cư trú tại Hội An, chúa Nguyễn cũng cho phép người Hoa định cư lâu dài tại đây. Những số liệu cho thấy khi người Nhật suy giảm vị thế của mình tại Đàng Trong thì dường như thương mại đã được chuyển qua tay người Hoa. Theo báo cáo được gửi cho Công ty Đông Ấn Hà Lan vào ngày 28 tháng 3 năm 1642 của Francisco Groemon, người đã sống ở Hội An hơn 10 năm, thì số lượng người Hoa tại đây là 4.000 đến 5.000 người, trong khi người Nhật chỉ còn 40 đến 50 người. Nói cách khác, vào đầu những năm 1640, người Hoa tại Hội An đông hơn người Nhật Bản gần 100 lần [8, tr.299]. Hệ quả lớn nhất của sự suy giảm này đó là thương mại giữa Đàng Trong và Nhật Bản đã được chuyển sang tay người Hoa. Hoa thương vốn thông thạo thị trường buôn bán, ngày càng trở thành những thương nhân giữ vị trí then chốt, năng động trong các hoạt động giao thương tại xứ Thuận - Quảng. Một trong những hành động thể hiện chiến lược ngoại giao đa dạng của chính quyền Thuận Hóa đó là cho phép người Hoa được khai phá vùng đất phía nam của Đàng Trong. Trước những biến động chính trị mạnh mẽ khi nhà Thanh (1644 - 1911) thay thế nhà Minh (1368 - 1644) cầm quyền tại Trung Quốc, vào năm 1679, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần (cq: 1648 - 1687) đã cho phép những người Hoa tị nạn, đứng đầu là Trần Thượng Xuyên được vào khai phá vùng đất Nam Bộ8. Trước những tiềm lực phát triển của vùng đất mới, vị thế người Hoa ngày càng cao, chúa Nguyễn đã đi đến một quyết định táo bạo đó là thiết lập quyền quản lý hành chính lên vùng đất Gia Định, thông qua việc thành lập phủ Gia Định năm 1698. Bên cạnh đó, chúa Nguyễn Phúc Chu còn tổ chức người Hoa thành những đơn Số 31 (Tháng 3 - 2020)58 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA vị cư trú chặt chẽ, quy củ hơn, chúa Nguyễn đã “lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấ