Trong đời sống sinh hoạt và sản xuất hàng ngày, dù muốn hay không, lúc này hay lúc khác và dù 
khoa học kỹ thuật có tiến bộ đến đâu đi nữa, người ta vẫn phải gánh chịu những tổn thất - hậu 
quảdo rủi ro, trong sựtác động của các nguy cơ đưa tới. Rủi ro, tổn thất nẩy sinh nhiều, nếu 
không nói là rất nhiều làm cho các từ “rủi ro”, “nguy cơ", "tổn thất". đã trởthành phổbiến 
trong ngôn ngữgiao tiếp hàng ngày. Tuy vậy, không phải vì vậy mà ai cũng có thểhiểu, cũng có 
thểsửdụng các "từ" các "thuật ngữ" đó một cách chính xác mà không lẫn lộn giữa chúng với 
nhau, đặc biệt, khi sửdụng các văn bản có liên quan đến lĩnh vực Bảo hiểm như Giấy chứng 
nhận bảo hiểm, Đơn bảo hiểm.cũng nhưkhi cần thiết tiến hành khiếu nại bồi thường trước các 
nhà bảo hiểm. Như vậy, để có thểtìm hiểu, khám phá, nghiên cứu lĩnh vực bảo hiểm, đểvận 
dụng một cách chính xác phương thức bảo hiểm vào xửlý các rủi ro, bất trắc hàng ngày, nhất 
thiết, trước tiên phải tìm hiểu các từngữ đó. Chúng được coi là những từ "khóa" mang tính dẫn 
nhập vào "mảnh đất"của bảo hiểm, giúp cho mọi người hiểu thống nhất theo các hiểu đúng nhất 
theo góc độbảo hiểm. Các thuật ngữmà chúng tôi lần lượt đềcập đến trong phần này là: 
(1) Tổn thất; (2) Khảnăng tổn thất; 
(3) Rủi ro; (4) Mức độ rủi ro; 
(5) Hiểm họa; (6) Nguy cơ.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2626 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương 1 Rủi ro & các phương thức xử lý rủi ro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rủi ro và các phương thức xử lý rủi ro Trang 
RỦI RO & CÁC PHƯƠNG THỨC XỬ LÝ RỦI RO CHƯƠNG 
1 
1.1. MỞ ĐẦU 
Trong đời sống sinh hoạt và sản xuất hàng ngày, dù muốn hay không, lúc này hay lúc khác và dù 
khoa học kỹ thuật có tiến bộ đến đâu đi nữa, người ta vẫn phải gánh chịu những tổn thất - hậu 
quả do rủi ro, trong sự tác động của các nguy cơ đưa tới. Rủi ro, tổn thất nẩy sinh nhiều, nếu 
không nói là rất nhiều làm cho các từ “rủi ro”, “nguy cơ", "tổn thất"... đã trở thành phổ biến 
trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Tuy vậy, không phải vì vậy mà ai cũng có thể hiểu, cũng có 
thể sử dụng các "từ" các "thuật ngữ" đó một cách chính xác mà không lẫn lộn giữa chúng với 
nhau, đặc biệt, khi sử dụng các văn bản có liên quan đến lĩnh vực Bảo hiểm như Giấy chứng 
nhận bảo hiểm, Đơn bảo hiểm...cũng như khi cần thiết tiến hành khiếu nại bồi thường trước các 
nhà bảo hiểm. Như vậy, để có thể tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu lĩnh vực bảo hiểm, để vận 
dụng một cách chính xác phương thức bảo hiểm vào xử lý các rủi ro, bất trắc hàng ngày, nhất 
thiết, trước tiên phải tìm hiểu các từ ngữ đó. Chúng được coi là những từ "khóa" mang tính dẫn 
nhập vào "mảnh đất" của bảo hiểm, giúp cho mọi người hiểu thống nhất theo các hiểu đúng nhất 
theo góc độ bảo hiểm. Các thuật ngữ mà chúng tôi lần lượt đề cập đến trong phần này là: 
 (1) Tổn thất; (2) Khả năng tổn thất; 
 (3) Rủi ro; (4) Mức độ rủi ro; 
 (5) Hiểm họa; (6) Nguy cơ. 
1.2. TỔN THẤT 
1.2.1. Khái niệm 
Tổn thất là sự thiệt hại một đối tượng nào đó phát sinh từ một biến cố bất ngờ ngoài ý muốn của 
chủ sở hữu (hoặc người chiếm hữu sử dụng). Ví dụ: cháy một căn nhà do sét đánh, thiệt hại tính 
mạng con người trong một vụ tàu trượt đường rầy, điều khiển xe vô tình gây tai nạn cho người 
thứ ba khác... Yếu tố “không cố ý” rất quan trọng trong định nghĩa nầy. Một anh sinh viên tặng 
cho bạn của mình một món quà nhân ngày sinh nhật của người bạn đó. Tất nhiên, vật phẩm làm 
quà tặng (có thể rất quý, rất đắt) không còn thuộc sở hữu của sinh viên đó nữa. Nhưng không 
phải vì vậy mà anh ta có thể cho mình đã bị tổn thất, bởi vì, việc mất quyền sở hữu đó không 
phải do một sự cố bất ngờ mà là do sự "cố ý" của chính anh ta. Sự thiệt hại một đối tượng có thể 
phát sinh do một sự cố mất mát (dẫn đến mất quyền sở hữu một khoản giá trị), cũng có thể từ 
một sự cố gây hư hại cho chính đối tượng (hủy hoại vật chất làm mất hoặc giảm giá trị sử dụng, 
đồng thời giảm giá trị của đối tượng bị gây hại). 
1.2.2. Phân loại tổn thất 
Căn cứ vào đối tượng bị thiệt hại 
a. Tổn thất tài sản: là sự giảm sút hoặc mất hẳn giá trị của tài sản do không cố ý, phát sinh từ một 
sự cố bất ngờ. 
b. Tổn thất con người: nẩy sinh từ sự việc thiệt hại tính mạng, thân thể con người dẫn đến thiệt 
hại một khoản giá trị (các khoản chi phí bằng tiền) nhằm khắc phục, điều trị hoặc dẫn đến việc 
khiếm khuyết một khoản thu nhập nhất định. 
Rủi ro và các phương thức xử lý rủi ro Trang 
c. Tổn thất do phát sinh trách nhiệm dân sự: Đó là việc phát sinh trách nhiệm dân sự theo 
ràng buộc của Luật dân sự dẫn đến phải bồi thường bằng tiền những thiệt hại về tài sản, tính 
mạng, thân thể, có khi cả thiệt hại về mặt tinh thần gây ra cho người thứ 3 khác do lỗi của 
mình. 
Căn cứ vào hình thái biểu hiện 
a. Tổn thất động: là trường hợp đối tượng vẫn nguyên giá trị sử dụng (không có sự hủy hoại 
vật chất) nhưng giá trị bị giảm sút. Đây là tổn thất nẩy sinh do tác động của yếu tố thị trường. 
b. Tổn thất tĩnh: loại tổn thất mà vật thể bị hư hỏng, mất mát, hủy hoại về mặt vật chất. Tổn 
thất này phát sinh vừa làm giảm (hoặc mất) giá trị sử dụng vừa làm giảm (hoặc mất) giá trị 
của đối tượng (trừ trường hợp tổn thất con người). 
Căn cứ vào khả năng lượng hóa 
a. Tổn thất có thể tính toán hay tổn thất tài chính: là những tổn thất, khi nó phát sinh, có thể 
tính toán, xác định được dưới hình thái tiền tệ. Vì vậy, tổn thất nầy còn gọi là tổn thất tài 
chánh. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt: 
- Tổn thất lường trước được; 
- Tổn thất không lường trước được. 
b. Tổn thất không xác định được hay tổn thất phi tài chính: là những tổn thất, khi nó xẩy ra, 
người ta không thể lượng hóa được bằng tiền. Vì vậy, tổn thất nầy còn gọi là tổn thất phi tài 
chính. Ví dụ: tổn thất về mặt “tinh thần”. 
Tuy nhiên, việc lượng hóa được hay không lượng hóa được bằng tiền cũng còn tùy thuộc vào 
mức độ “thị trường hóa”, mức độ phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, ranh giới 
giữa 2 loại tổn thất nầy sẽ không giống nhau ở mọi nơi, mọi lúc và khái niệm “lượng hóa” 
chỉ là một khái niệm mang tính chất “lịch sử”. 
1.2.3. Ý nghĩa 
Đối với đời sống kinh tế - xã hội: 
Tổn thất phát sinh làm gián đoạn (tạm thời hoặc vĩnh viễn) quá trình sinh hoạt của một cá 
nhân, làm gián đoạn quá trình sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Trên bình 
diện rộng, tổn thất phát sinh làm giảm của cải vật chất xã hội, làm gián đoạn, giảm sút hoặc 
mất khả năng lao động của con người, làm ảnh hưởng xấu đến quá trình tái sản xuất (giản 
đơn và mở rộng) của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, người ta luôn tìm cách chống lại, 
tránh né hoặc giảm thiểu nó trong phạm vi và mức độ có thể có. 
Đối với lĩnh vực bảo hiểm: 
Tổn thất phát sinh trở thành nhân tố trực tiếp làm cho tác dụng của bảo hiểm được thể hiện 
và phát huy một cách cụ thể. Thật vậy, bồi thường tổn thất của bảo hiểm sẽ giúp tái tạo lại 
các quá trình sản xuất và sinh hoạt bị làm gián đoạn do có tổn thất phát sinh như đã nói ở 
trên, làm cho đời sống kinh tế - xã hội (ở phạm vi rộng lẫn hẹp) đều được tái lập lại thế cân 
bằng của nó. 
1.3. KHẢ NĂNG TỔN THẤT 
1.3.1 Định nghĩa: 
Khả năng tổn thất là chỉ số biểu hiện số tổn thất trong một số trường hợp nhất định. Thuật ngữ 
Khả năng tổn thất được sử dụng khi người ta muốn đánh giá về một tình trạng xấu đã xảy ra 
trong quá khứ của một nhóm đối tượng đồng loại nhất định. Thông thường chỉ số nầy có hai 
cách biểu hiện: 
Rủi ro và các phương thức xử lý rủi ro Trang 
- Nếu tính theo giá trị thì gọi là Mức độ tổn thất; 
- Nếu tính theo số lượng thì gọi là Tần số tổn thất. 
Để xác định Khả năng tổn thất, người ta phải dựa vào thống kê kinh nghiệm được thực hiện trên 
một tổng thể khối lượng trường hợp đủ lớn và xét trong một thời gian đủ dài. 
Ví dụ: Muốn biết khả năng tổn thất do tai nạn hàng hải cho một con tàu cần phải thống kê tai nạn 
hàng hải trên các tàu biển tương tự. Chẳng hạn như, trong 100.000 con tàu cùng loại có tổng trị giá 
là 2.000.000 USD có 100 tàu bị nạn, tổng giá trị thiệt hại là 1.000 USD thì: 
 Tần số tổn thất là: 
 100 / 100.000 = 0,10 % 
 Mức độ tổn thất là: 
 1.000/ 2.000.000 = 0,05 % 
1.3.2 Ý nghĩa: 
Khả năng tổn thất là một chỉ số quan trọng không chỉ đối với các tổ chức hoạt động bảo hiểm mà 
còn đối với mọi chủ thể kinh tế xã hội: 
 Đối với Nhà bảo hiểm, đó là cơ sở để xác định xác suất xảy ra biến cố trong tương lai, ảnh 
hưởng trực tiếp đến việc tính phí bảo hiểm cho các rủi ro. 
 Đối với các chủ thể kinh tế - xã hội khác, xác định đúng khả năng tổn thất cho từng rủi ro, từng 
đối tượng sẽ giúp họ đánh giá một cách đầy đủ và chính xác ở mức độ nhất định tình hình hoạt 
động tại đơn vị của mình để từ đó có thái độ xử sự đúng đắn, và có biện pháp cụ thể đối với các rủi 
ro, tổn thất. 
1.4. RỦI RO 
1.4.1. Định nghĩa 
Như ở phần mở đầu đã đề cập, từ "rủi ro" rất thường được sử dụng trong giao tiếp hằng ngày, 
nhưng ít người ngồi lại để tìm ra một định nghĩa cho nó. Điều đặc biệt là, với số ít người (các nhà 
kinh tế, các người nghiên cứu bảo hiểm...), định nghĩa về danh từ "rủi ro" được đưa ra rất nhiều, 
dưới nhiều góc nhìn khác nhau thậm chí rất khác nhau. Có thể ghi nhận một vài định nghĩa như 
sau: 
(1) Theo Frank Knight: “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” (1) 
(2) Theo Irving Preffer: "Rủi ro là tổng hợp những sự ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác 
suất" (2) 
(3) Theo Allan Willett: "Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không 
mong đợi" (3) 
(4) "Rủi ro là một sự cố không chắc chắn xảy ra hoặc ngày giờ xảy ra không chắc chắn. Để chống 
lại điều đó, người ta có thể yêu cầu bảo hiểm" (4) 
1() Frank Knight, Risk, Uncertainty and Profit, Boston: Houghton Mifflin Company, U.S.A. 1921, p. 233 
(2) Irving Preffer, Insurance and Economic Theory, Homeword III: Richard Di Irwin, Inc. USA-1956, p. 42 
(3) Allan Willett, The Economic Theory of Risk and Insurance, Philadelphia: University of Pensylvania Press, USA. 1951, p. 
6 
(4) Nhiều tác giả, Dictionnaire d'assurance (Franςais-Vietnamien), l’École Supérieur des finances et de la comptabilité de 
Hanoi-FFSA, Hanoi-1994,p. 60 
Rủi ro và các phương thức xử lý rủi ro Trang 
 (5) "Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất" (5) 
Các định nghĩa nêu trên dù ít nhiều khác nhau song đều đề cập đến cùng 2 vấn đề: 
- Sự không chắc chắn, yếu tố bất trắc; 
- Một khả năng xấu: một biến cố không mong đợi, tổn thất. 
1.4.2. Nguồn gốc và Nguyên nhân của Rủi ro 
Nguồn gốc của rủi ro: 
a. Nguồn gốc tự nhiên: Do con người chưa nhận thức hết các quy luật của tự nhiên hoặc không 
đủ khả năng chế ngự hết những tác động của tự nhiên dù đã nhận biết được quy luật. Ví dụ: 
Rủi ro động đất, rủi ro núi lửa phun... 
b. Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Tiến bộ khoa học kỹ thuật, một mặt, thúc đẩy kinh tế - xã hội 
phát triển với việc phát minh ra các máy móc, các phương tiện tinh vi, hiện đại. Mặt khác, 
chính các thành tựu đó lại làm nẩy sinh các rủi ro đe dọa đời sống con người khi có sự mất khả 
năng kiểm soát, chế ngự nhất thời. Ví dụ: Nổ, đỗ vỡ máy móc, điện giật... 
Bên cạnh đó, xã hội phát triển cùng với các mối quan hệ nẩy sinh càng ngày càng nhiều, càng 
phức tạp và không phải lúc nào cũng diễn một cách thuận lợi. Các mâu thuẩn tất yếu sẽ phát 
sinh dẫn đến phá vỡ các mối quan hệ xã hội, trở thành một trong những nguyên nhân của các 
tổn thất. Ví dụ: chiến tranh, trộm cắp, đình công... 
Nguyên nhân của Rủi ro 
a. Nguyên nhân khách quan: các nguyên nhân được coi là khách quan nếu nó độc lập với hoạt 
động của con người. Có thể là: 
- Trường hợp bất khả kháng gắn với tự nhiên, hoặc gắn với đời sống xã hội; 
- Các trường hợp ngẫu nhiên: gắn liền với hoạt động của con người nhưng nguyên nhân 
không rõ ràng, không xác định được (6). Các trường hợp này không ai gây ra các thiệt hại đã 
phát sinh, các sự cố xẩy ra không có sự tham gia của con người. 
b. Nguyên nhân chủ quan: Biến cố xẩy ra dưới sự tác động của con người. Có thể là: 
- Trường hợp chính bản thân nạn nhân tự gây ra tổn thất cho mình (sơ xuất...). Nạn nhân 
không thể đòi ai khác bồi thường cho mình (Ở đây chưa đề cập đến rủi ro được bảo hiểm). 
- Trường hợp do người thứ 3 khác gây ra. Trong trường hợp này, nạn nhân có thể yêu cầu 
người thứ 3 có trách nhiệm phải bồi thường, tuy nhiên, chỉ giới hạn trong khả năng tài chính 
của người đó. 
1.4.3. Phân loại rủi ro 
Rủi ro có thể tính toán và không thể tính toán 
Người ta cố gắng phân định rõ và tách biệt hẳn 2 loại rủi ro: có thể tính toán được và không thể 
tính toán được. 
a. Rủi ro có thể tính toán được hay rủi ro tài chính: là những rủi ro mà tần số xuất hiện cũng 
như mức độ trầm trọng của nó có thể tiên đoán được. 
b. Rủi ro không thể tính toán được hay rủi ro phi tài chính: người ta không thể (hoặc chưa có 
thể) tìm ra được quy luật vận động nên không thể (chưa thể) tiên đoán được xác suất xẩy ra 
biến cố trong tương lai. Ví dụ: xác suất của biến cố người ngoài trái đất đổ bộ và tàn sát nhân 
loại...Trên thực tế, dường như không có ranh giới rõ ràng cho hai loại rủi ro nêu trên vì ngay cả 
khi có thể xác định được xác suất xẩy ra biến cố trong tương lai thì con số đó chỉ có mức độ 
chính xác tương đối với một mức độ tin cậy nhất định. 
2(5) Nguyễn Phong, Tập bài giảng bảo hiểm tại Đại học Tài chính, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, TP HCM-1988, p. 4,5 
(6) Quan điểm của các nhà bảo hiểm châu Âu 
Rủi ro và các phương thức xử lý rủi ro Trang 
Rủi ro động và rủi ro tĩnh : 
 Người ta còn phân rủi ro thành hai loại: Rủi ro động và rủi ro tĩnh 
a. Rủi ro động: là những rủi ro vừa có thể dẫn đến khả năng tổn thất vừa có thể dẫn đến một khả 
năng kiếm lời. Cũng vì khả năng kiếm lời đó mà người ta còn gọi những rủi ro này là rủi ro suy 
tính hay một rủi ro đầu cơ. 
b. Rủi ro tĩnh: là những rủi ro chỉ có khả năng dẫn đến tổn thất hoặc không tổn thất chứ không có 
khả năng kiếm lời. Do nó luôn luôn và chỉ gắn liền với một khả năng xấu, khả năng tổn thất nên 
người ta gọi là rủi ro thuần túy (hay rủi ro thuần). Rủi ro tĩnh phát sinh có thể làm tổn thất xẩy ra 
đối với cả ba đối tượng: 
- Tài sản; 
- Con người; 
- Trách nhiệm. 
Tương tự như rủi ro tính toán và không thể tính toán được, rất khó có ranh giới rõ ràng giữa rủi ro 
động và rủi ro tĩnh. Tuy nhiên, người ta đã chỉ ra ba điểm khác nhau cơ bản giữa chúng như sau: 
 Rủi ro tĩnh thường liên quan với sự hủy hoại vật chất, còn rủi ro động liên quan đến sự thay đổi 
giá cả, giá trị; 
 Rủi ro tĩnh tồn tại đối với cả tổng thể nhưng chỉ phát động ảnh hưởng đến một vài phần tử, 
ngược lại, rủi ro động khi phát động sẽ ảnh hưởng đến tất cả các phần tử trong tổng thể đó; 
 Xét về mặt thời gian, rủi ro tĩnh phổ biến hơn rủi ro động. 
Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt: 
a. Rủi ro cơ bản: là những rủi ro xuất phát từ sự tác động hổ tương thuộc về mặt kinh tế, chính trị, 
xã hội và đôi lúc thuần túy về mặt vật chất. Những tổn thất hậu quả do rủi ro cơ bản gây ra không 
chỉ do từng cá nhân và ảnh hưởng đến toàn bộ nhóm người nào đó trong xã hội. 
b. Rủi ro riêng biệt: là các rủi ro xuất phát từ từng cá nhân con người. Tác động của các rủi ro 
không ảnh hưởng lớn đến toàn bộ xã hội mà chỉ có tác động đến một số ít con người. 
1.5. MỨC ĐỘ RỦI RO 
Như đã đề cập ở phần trứơc, một rủi ro được coi là có thể tính tóan nếu xác suất xuất hiện trong 
tương lai của nó có thể xác định được. Việc tính toán xác suất xảy ra của một biến cố trong tương 
lai trước hết phải dựa trên cơ sở thống kê, xác định tần suất xảy ra biến cố đó trong quá khứ và 
phải cân nhắc, tính đến sự thay đổi của các yếu tố cũng như sự xuất hiện những nhân tố mới có thể 
tác động đến nó. Như vậy, việc tính toán xác xuất xảy ra rủi ro trong tương lai ít nhiều mang tính 
chất phán đoán. Có nghĩa là, sẽ có sự sai biệt nhất định giữa biến cố thực sự (tần suất xảy ra biến 
cố trong thực tế) và biến cố dự kiến (xác suất biến cố lý thuyết). Độ sai biệt đó chính là Mức độ rủi 
ro. Nói cách khác, Mức độ rủi ro là mức độ dao động của khả năng tổn thất xoay quanh xác suất lý 
thuyết của biến cố đó tính trong cùng một thời kỳ. 
Kết quả chứng minh toán học cho thấy rằng: Số lượng các đối tượng tham gia mẫu để tính khả 
năng tổn thất tăng lên thì sai biệt có thể có giữa biến cố thật sự và biến cố dự kiến sẽ tăng lên. Tuy 
nhiên, tốc độ tăng độ sai biệt chậm hơn tốc độ độ tăng của số lượng đối tượng tham gia vào mẫu. 
Nói cách khác, số trường hợp sai biệt sẽ tăng lên khi tăng kích thước của mẫu nhưng tỷ lệ sai biệt 
lại giảm xuống tức Mức độ rủi ro được giảm thiểu. 
Rủi ro và các phương thức xử lý rủi ro Trang 
1.6. HIỂM HỌA 
 Thuật ngữ: “hiểm họa” thường được sử dụng trong các đơn bảo hiểm “Mọi rủi ro” (All Risks 
Policy). Nó biểu hiện hàng loạt các sự cố có thể xẩy ra gây thiệt hại cho một đối tượng hoặc 
một sự cố không chắc chắn nào đó có thể ảnh hưởng đến nhiều người khác nhau với tư cách 
khác nhau. 
 Ví dụ: Hiểm họa ma túy, hiểm họa sida, hiểm họa hàng hải.... 
Một cách đơn giản, có thể nói: Hiểm họa là một rủi ro khái quát, một nhóm các rủi ro cùng 
loại và có liên quan. 
1.7. NGUY CƠ 
1.7.1. Khái niệm: 
Nguy cơ là một thuật ngữ thường được sử dụng trên các đơn bảo hiểm thuộc thị trường bảo 
hiểm Anh - Mỹ. Trên thực tế, người ta rất khó phân biệt và thường lẫn lội giữa nguy cơ và 
hiểm họa. Một khi có nguy cơ thì có nghĩa là sự phát động của hiểm họa gần với hiện thực hơn, 
khả năng xẩy ra tổn thất cao hơn. 
 Ví dụ: quản lý cẩu thả, tàu không đủ khả năng hành thủy, đường giao thông bị hư hỏng... 
Nguy cơ xuất hiện như một điều kiện phối hợp, tác động làm rủi ro xẩy ra dẫn đến tổn thất. 
Bản thân nguy cơ là hoàn toàn độc lập với rủi ro. 
 Ví dụ: rủi ro hỏa hoạn đe dọa bất kỳ căn nhà nào dù trong căn nhà đó có chứa xăng hay 
chất dễ cháy, nổ hay không... 
Một cách ngắn gọn, nguy cơ có thể định nghĩa như sau: Nguy cơ là những điều kiện phối hợp, 
tác động làm tăng khả năng tổn thất. 
1.7.2. Phân loại nguy cơ 
(1) Nguy cơ vật chất: là một yếu tố khách quan làm gia tăng khả năng tổn thất. Ví dụ: sản xuất 
pháo nổ là một nguy cơ vật chất làm tăng khả năng bị tổn thất do hỏa hoạn và nổ. 
(2) Nguy cơ tinh thần: là một yếu tố tinh thần (chủ quan) nhưng không cố ý làm tăng khả năng 
gia tăng tổn thất. Ví dụ: Thiếu hiểu biết dẫn đến có hành vi nguy cơ làm gia tăng khả năng lây 
nhiễm HIV. 
(3) Nguy cơ đạo đức: là một yếu tố chủ quan cố ý làm gia tăng khả năng tổn thất. Ví dụ: người 
được bảo hiểm không lương thiện có thể đánh đắm con tàu của mình để đòi bồi thường với 
mục đích kiếm lời. 
 Việc nghiên cứu nguy cơ rất quan trọng đối với với cả người được bảo hiểm lẫn người 
bảo hiểm. Nó ảnh hưởng không chỉ đến việc hoạch định các biện pháp giảm thiểu nguy cơ, đề 
phòng tổn thất mà còn ảnh hưởng đến việc đánh giá, định giá để đảm bảo hoặc từ chối đảm bảo 
cho các rủi ro đó. 
1.8. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC XỬ LÝ RỦI RO, NGUY CƠ VÀ TỔN THẤT 
 Rủi ro là sự bất trắc, sự không chắc chắn về tổn thất. Rủi ro tồn tại mọi nơi, gắn liền với mọi lĩnh 
vực hoạt động đời sống xã hội. Sẽ không có ai có thể được giải phóng hoàn toàn khỏi các rủi ro, do 
đó, bằng cách này hay cách khác, tích cực hay tiêu cực, họ phải đối đầu với một số rủi ro cụ thể 
nào đó. 
Cho đến nay, các nhà kinh tế, các học giả bảo hiểm, song song với việc tìm hiểu các rủi ro, cũng đã 
đưa ra nhiều cách xử sự đối với rủi ro, nguy cơ và tổn thất. Một số cách xử lý có thể kể sau đây: 
Rủi ro và các phương thức xử lý rủi ro Trang 
(1) Tránh né rủi ro; 
(2) Gánh chịu rủi ro; 
(3) Giảm thiểu nguy cơ và giảm thiểu tổn thất; 
(4) Hoán chuyển rủi ro; 
(5) Giảm thiểu rủi ro. 
1.8.1. Tránh né rủi ro: 
Đây là cách xử sự hiển nhiên nhất bởi vì đương nhiên sẽ càng tốt nếu như người ta tránh né được 
càng nhiều rủi ro, tổn thất. Theo các nhà nghiên cứu, tránh né rủi ro chính là việc thực hiện những 
lựa chọn tốt, lấy các quyết định thích nghi trong cuộc sống hằng ngày. 
Ví dụ: Sau sự kiện YAK 40 - Ô Kha, người ta tránh né rủi ro bị rơi máy bay bằng cách không đi 
máy bay mà đi bằng xe lửa. Một người muốn tránh rủi ro bị nhiễm bệnh đường hô hấp do môi 
trường bị ô nhiễm bụi khói công nghiệp thì có thể về nông thôn hay về vùng đồi núi để sinh sống. 
Trên thực tế, chỉ có thể tránh né rủi ro khi có thể có sự lựa chọn và trong đó việc chấp nhận rủi ro 
nầy, tránh né rủi ro kia là hợp lý. Trong điều kiện một nền kinh tế thị trường, sự hợp lý (hay không 
hợp lý) của phương thức tránh né được quyết định bởi giá phí của sự lựa chọn đó trong sự so sánh 
với giá phí của các lựa chọn khác. 
Ví dụ: Người ta không thể tránh né rủi ro cháy nhà bằng cách bán nhà và ...ở lang thang ngoài 
đường phố, không thể giải đáp thắc mắc ngày nào sẽ chết bằng cách tự vẫn ngay tức khắc. 
 Khi không thể áp dụng phương thức tránh né, người ta buộc phải tìm các phương thức khác để 
giải quyết. 
1.8.2. Gánh chịu rủi ro: 
Đây có vẻ như là một cách xử sự dễ dàng nhất để đón nhận sự không chắc chắn về một sự việc nào 
đó. Tuy nhiên, không hẳn đơn giản như thế vì cũng có rất nhiều lý do dẫn đến việc người ta chấp 
nhận gánh chịu rủi ro: 
a. Quyết định gánh chịu rủi ro khi không còn phương thức nào tốt hơn để giải quyết. Giống như ví 
dụ trên, chúng ta bắt buộc phải trú ngụ trong nhàtức chấp nhận gánh chịu rủi ro căn nhà có thể bị 
bốc cháy một lúc nào đó. Chúng ta chấp nhận gánh chịu rủi ro bị cháy nổ, rơi phương tiện khi di 
chuyển từ nơi nầy sang nơi khác, không thể tránh né nó bằng cách đi bộ hay... sử dụng câ đ