An toàn thông tin là sự bảo vệ thông tin và hệ
thống thông tin trước việc truy cập, sử dụng
trái phép, tiết lộ bí mật, làm gián đoạn tiến
trình, làm thay đổi nội dung, ghi âm hoặc tiêu
hủy thông tin,
101 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương 6. An toàn thông tin và bảo trì máy tính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 6. AN TOÀN THÔNG
TIN VÀ BẢO TRÌ MÁY TÍNH
6.1 AN TOÀN THÔNG TIN
6.1.1 Khái niệm
An toàn thông tin là sự bảo vệ thông tin và hệ
thống thông tin trước việc truy cập, sử dụng
trái phép, tiết lộ bí mật, làm gián đoạn tiến
trình, làm thay đổi nội dung, ghi âm hoặc tiêu
hủy thông tin,…
Theo tài liệu ISO 17799 của tổ chức tiêu chuẩn
quốc tế, an toàn thông tin là khả năng bảo vệ
đối với thông tin, đảm bảo việc hình thành,
phát triển và sử dụng thông tin vì lợi ích của
mọi công dân, mọi tổ chức và của quốc gia.
Thông qua các chính sách về an toàn thông
tin, lãnh đạo tổ chức thể hiện ý chí và năng lực
của mình trong việc quản lý hệ thống thông
tin.
An toàn thông tin được xây dựng trên nền
tảng một hệ thống các chính sách, quy tắc,
quy trình và các giải pháp kỹ thuật nhằm
mục đích đảm bảo an toàn tài nguyên thông
tin mà tổ chức đó sở hữu cũng như các tài
nguyên thông tin của các đối tác, các khách
hàng.
7.1.2 Dấu hiệu và một số nguy cơ gây mất
an toàn thông tin
Hệ thống thông tin nếu có một trong các dấu
hiệu dưới đây sẽ được coi là không an toàn về
mặt thông tin:
- Dữ liệu trong hệ thống bị truy nhập để lấy
cắp và sử dụng trái phép dẫn đến lộ bí mật của
hệ thống.
- Các dữ liệu trong hệ thống bị thay
thế hoặc sửa đổi làm sai lệch nội dung,
mất tính toàn vẹn, dẫn đến thông tin
được cung cấp bởi hệ thống không còn
độ tin cậy.
- Dữ liệu, thông tin được cung
cấp bởi hệ thống không đảm bảo
được tính thời gian thực, hệ
thống thường xuyên bị sự cố hoặc
truy cập, khai thác khó khăn dẫn
đến tính sẵn sàng của hệ thống bị
giảm sút.
. Có thể một số người được phân thừa
quyền trong hệ thống, có thể có cả
quyền quản trị hệ thống. Đây là một
nguy cơ hiện hữu vì theo số liệu thống
kê, có tới gần một nửa các vi phạm ảnh
hưởng đến an toàn thông tin xuất phát từ
phía người sử dụng nội bộ, trong số đó có
nhiều người được phân “đặc quyền” trong
hệ thống và họ đã vô tình hoặc cố ý lạm
dụng các đặc quyền đó để khai thác
thông tin trái phép.
.Nguy cơ xuất phát từ tội phạm máy
tính: theo số liệu của Verizon (US
secret service), trong năm 2010, có tới
40% các vụ việc mất an toàn thông tin
do các tin tặc gây ra. Nguy cơ này
ngày càng cao do tội phạm máy tính
ngày càng gia tăng nhanh cả về số
lượng, thủ đoạn, mức độ chuyên
nghiệp và trình độ kỹ thuật.
.
Nguy cơ xuất phát từ lừa đảo
thông qua các kỹ năng xã hội
(Social Engineering) của các tổ chức
tội phạm thông tin chuyên nghiệp.
Cũng theo số liệu của Verizon, trong
năm 2010, tỷ lệ phạm tội của hình
thức này chiếm tới 28% số vụ việc
.Nguy cơ từ virus máy tính và các
phần mềm độc hại.
Đây là một trong những nguy cơ
nguy hiểm nhất, virus máy tính và
các phần mềm độc hại luôn đƣợc
tạo mới hàng ngày với số lượng gia
tăng rất nhanh, mức độ phá hoại
đối với máy tính và dữ liệu ngày
càng nghiêm trọng.
.Nguy cơ từ các lỗ hổng của hệ thống:
theo đánh giá của các chuyên gia, các
lỗ hổng bảo mật của các hệ thống
thông tin ngày càng đƣợc phát hiện
với số lượng lớn.
Nguy cơ từ sai hỏng thiết bị phần
cứng, đặc biệt là đĩa cứng hỏng đột ngột
do chất lượng kém hoặc dùng đã lâu,
hết khấu hao mà không được thay thế,
trong khi đó lại không có các biện pháp
sao lưu dữ liệu dự phòng.
6.1.3 Một số giải pháp nhằm
đảm bảo an toàn thông tin
Nhằm đảm bảo an toàn thông tin
cho hệ thống, các nhà quản lý và
vận hành hệ thống cần tiếp cận
theo hai hướng:
1. Các giải pháp nền tảng
Bao gồm các giải pháp tổng thể về mọi
phương diện: kỹ thuật, con người và
chính sách. Cụ thể:
- Giảm thiểu các nguy cơ có thể
xuất phát từ cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Cần xác định nguyên nhân có thể
dẫn đến nguy cơ mất an toàn thông
tin để có thể đưa ra giải pháp kỹ
thuật tƣơng ứng.
- Nâng cao chất lượng cán bộ quản
lý và ngƣời dùng nội bộ: lựa chọn
kỹ càng những nhân sự làm công
tác quản trị và vận hành hệ thống;
thường xuyên tổ chức các khóa đào
tạo và nâng cao trình độ, ý thức cho
ngƣời sử dụng nội bộ.
-Xây dựng các chính sách, quy định,
quy chế nhằm đảm bảo an toàn cho
hệ thống thông tin nói chung và dữ
liệu nói riêng khi khai thác và vận
hành hệ thống.
- Đầu tư ngân sách thỏa đáng
cho các hoạt động nhằm đảm bảo
an toàn thông tin.
2. Các giải pháp kỹ thuật
- Kiểm tra mức độ an ninh, an
toàn của các thành phần tham gia
hệ thống. Cụ thể: kiểm tra phát
hiện các lỗ hổng an ninh có thể có
trong toàn bộ hệ thống, kiểm tra
phát hiện các phần mềm cài cắm để
lấy cắp hoặc phá hủy dữ liệu,…
- Bảo mật, xác thực các dữ liệu tại
chỗ cũng như trong quá trình giao
dịch, trao đổi. Cụ thể: sử dụng các
kỹ thuật mã hóa, xác thực mạnh có
độ tin cậy cao.
-Sử dụng các hệ thống kỹ thuật để
bảo vệ dữ liệu: sử dụng hệ thống
phát hiện và chống xâm nhập,
chống lấy cắp hoặc phá hoại dữ
liệu.
- Sử dụng các thiết bị, phần mềm chất
lượng cao, ổn định; Trang bị đầy đủ các
hệ thống dự phòng, hệ thống chống sét,
chống sốc điện, thiên tai, thảm họa,...
-Sử dụng giải pháp “máy xén giấy” cho
các thiết bị lưu dữ liệu đã qua sử dụng
khi thanh lý hoặc bị hư hỏng.
6.2 Virus máy tính
6.2.1 Khái niệm và lịch sử hình thành
Virus máy tính là những chương trình hay đoạn
mã lệnh do con người tạo ra, được gắn vào các
tệp tin để lây nhiễm. Chúng được thiết kế để có
khả năng tự nhân bản và lây nhiễm trong máy
tính và giữa các máy tính, chúng cũng được
thiết kế để có khả năng ẩn mình nhằm tránh sự
phát hiện của người sử dụng cũng như các
chương trình quét kiểm tra virus.
Virus máy tính luôn tự động làm
những việc mà chủ của nó lập trình
sẵn, không cần đợi sự cho phép hay ra
lệnh của người sử dụng.
Các công việc của virus làm thường
nhằm mục đích phá hoại sự hoạt
động bình thường của máy tính, làm
hỏng hoặc ăn cắp dữ liệu trên máy,
hoặc đơn giản chỉ là những thông
báo bất thường làm phiền người sử
dụng.
Về lịch sử hình thành virus máy
tính, có một vài quan điểm khác
nhau, dưới đây sẽ nêu tóm tắt và
khái quát những điểm chung nhất
nhằm làm rõ quá trình hình thành
của virus máy tính:
- Năm 1949: John von Neumann
(1903-1957) - một nhà toán học người
Mỹ, gốc Hungary, đồng thời cũng là cha
đẻ của kiến trúc máy tính số hiện đại - đã
phát triển nền tảng lý thuyết tự nhân bản
của chƣơng trình máy tính. Ông đã trình
bày các bài giảng tại Đại học Illinois về
"Lý thuyết và tổ chức automat phức tạp”.
Ông cho rằng chương trình máy tính
có thể được tự động tái tạo. Đây
chính là một trong những nền tảng
lý thuyết mà sau này virus máy tính
đã lợi dụng để phát tán và lây
nhiễm.
Cuối những năm 60, đầu thập niên
70, một chương trình máy tính với
tên gọi là "Pervading Animal" đã
xuất hiện trên các máy Univax 1108
với khả năng: tự nó có thể nối vào
phần sau của các tập tin khả thi (lúc
này vẫn chưa hình thành khái niệm
virus máy tính).
Năm 1972, Veith Risak cho xuất
bản bài báo “Tái tạo tự động với
trao đổi thông tin tối thiểu”. Bài báo
mô tả về một loại chƣơng trình máy
tính (với đầy đủ chức năng của virus
như hiện nay) đƣợc viết bằng ngôn
ngữ máy cho hệ thống máy tính
SIEMENS 4004/35.
- Vào năm 1981: một vài chương
trình máy tính (có chức năng như
virus ngày nay) đầu tiên đã xuất
hiện trong hệ điều hành của máy
tính Apple II.
- Vào năm 1984: tại Đại học
Nam California - Mỹ, Fred Cohen
lần đầu tiên đưa ra khái niệm
virus máy tính (computer virus)
như ngày nay.
Tới năm 1986: Virus "the Brain", là
virus đầu tiên có khả năng ảnh
hưởng tới máy tính cá nhân được
tạo ra tại Pakistan bởi Basit và
Amjad. Đoạn mã độc hại này được
thiết kế ẩn trong phần khởi động
(boot sector) của một đĩa mềm
360KB và nó có khả lây nhiễm tới
tất cả các ổ đĩa mềm.
Năm 1988: Virus Jerusalem tấn
công đồng loạt vào máy tính của
các trường đại học và các công ty
thuộc nhiều quốc gia vào Thứ Sáu
ngày 13. Đây là loại virus hoạt động
theo đồng hồ của máy tính
Năm 1987: Virus đầu tiên tấn công
vào tệp hệ thống command.com là
virus có tên là "Lehigh". Virus này
được phát hiện tại Đại học Lehigh,
chúng tấn công các máy tính theo
chuẩn IBM và tương thích chuẩn
IBM.
Vào 3/1988, lần đầu tiên phần mềm
phát hiện và chống virus được thiết
kế để phát hiện và loại bỏ các virus
Brain. Phần mềm này cũng chủng
ngừa cho các đĩa mềm để chúng có
thể an toàn trước virus Brain
Năm 1990: Chương trình tìm kiếm
và diệt virus thương mại đầu tiên
được giới thiệu bởi hãng Norton.
Sau đó các hãng IBM, McAfee cũng
lần lượt giới thiệu các phần mềm
diệt virus ra thị trường.
Năm 1991: Virus đa hình
(polymorphic virus) xuất hiện.
Đầu tiên là virus có tên gọi
"Tequilla". Loại virus này có khả
năng tự thay đổi hình thức của nó,
gây khó khăn cho các chương trình
chống virus khi tìm diệt.
- Năm 1994: Một số người sử
dụng do chưa có kinh nghiệm, và
cũng vì lòng tốt nên đã chuyển tiếp
cho nhau một thư điện tử cảnh báo
tất cả mọi người không mở bất kỳ
một thư điện tử nào có cụm từ
"Good Times" trong dòng tiêu đề
của thư
Năm 1995: Virus văn bản (macro
virus) đầu tiên xuất hiện trong các
đoạn mã macro của các tệp tin văn
bản của phần mềm soạn thảo
Microsoft Word và đã lan truyền
nhanh qua rất nhiều máy tính. Loại
virus này có thể làm hỏng hệ điều
hành máy bị nhiễm, phá hủy các
tệp văn bản.
Năm 1999, xuất hiện virus Tristate,
có thể tấn công vào các tệp văn bản
Word, các tệp bảng tính Excel và các tệp
trình chiếu PowerPoint.
- Năm 2000: Virus Love Bug,
còn có tên gọi khác là ILOVEYOU
đã đánh vào tính hiếu kì của mọi
người. Đây là một loại macro virus.
Đặc điểm là nó dùng đuôi tập tin
dạng "ILOVEYOU.txt.exe".
Năm 2003: Virus SQL Slammer, lan
truyền với tốc độ kỉ lục, nó đã lây
nhiễm vào khoảng 75 ngàn máy
tính chỉ trong khoảng thời gian 10
phút
Năm 2004 là năm đánh dấu một thế
hệ mới của virus. Đó là virus worm
Sasser. Loại virus có khả năng lây
lan rất mạnh mẽ vì nó có thể tự
động phát tán tới bất cứ máy tính
nào kết nối mạng Internet mà
không cần phải mở tệp đính kèm
của thư điện tử, chỉ cần mở nội
dung thư là nó đã có thể xâm nhập
vào máy tính
6.2.2 Phân loại Virus máy tính
Virus máy tính thường được phân
loại theo bản chất và hình thức của
việc lây nhiễm. Thông thường, virus
máy tính được phân loại như sau:
Virus tệp (File virus – F Virus): loại
này lây nhiễm vào các file chương
trình và chúng có khả năng lây lan
rất nhanh vào tất cả các file khả thi
có trong ổ đĩa cứng
Virus Mailer: virus loại này tìm kiếm
trong các chương trình e-mail (như
MS outlook), lấy ra danh sách địa
chỉ e-mail được lưu trữ trong đó và
nhân bản e-mail rồi gửi vào danh
sách này.
Virus văn bản (Macro Virus): tác giả
của loại virus này đã sử dụng một
ngôn ngữ lập trình macro đơn giản
hoá, thường là VBA để sản xuất ra
các virus này. Loại này thường tấn
công vào các ứng dụng trong bộ
Microsoft Office, phổ biến Word và
Excel.
Virus đa hình (Polymorphic Virus):
sau khi phát tán đến một máy tính
khác, loại virus này có khả năng
thay đổi mã chương trình để tránh
sự phát hiện của các chương trình
chống virus, do đó nó còn được gọi
là virus đột biến.
Virus bọc thép (Armored virus): loại
virus này được thiết kế để gây khó
khăn cho việc phát hiện hay phân
tích nó, chúng có khả năng tự bảo
vệ mình trước các chương trình
chống virus nên rất khó để có thể
tiêu diệt được nó..
Stealth virus: loại virus này có khả
năng tự che dấu rất tốt trước các
phần mềm chống virus bằng cách
thay đổi kích thước của tệp tin hoặc
thay đổi cấu trúc thư mục.
Retrovirus: là một loại virus
luôn tìm cách tấn công nhằm vô
hiệu hóa các phần mềm chống virus
chạy trên máy tính. -
Virus nhiều đặc điểm (Multiple
Characteristic Viruses): loại virus
này có những đặc trưng khác nhau
của nhiều loại virus và chúng cũng
có nhiều khả năng gây hại khác
nhau đối với máy tính và dữ liệu.
6.2.3 Cách thức phát tán, lây nhiễm
a. Virus lây nhiễm theo cách cổ
điển
Theo cách này, virus máy tính phát
tán thông qua các thiết bị lưu trữ di
động. Các đĩa cứng di động hoặc
các thiết bị giải trí kỹ thuật số (máy
nghe nhạc, máy ảnh, điện thoại di
động,…) sẽ là vật trung gian cho sự
lây nhiễm
b. Virus phát tán qua thư điện tử.
Virus lây nhiễm qua thư điện tử
Khi thư điện tử ngày càng được sử
dụng rộng rãi thì virus chuyển
hướng phát tán thông qua thư điện
tử thay cho các cách lây nhiễm
truyền thống.
Khi đã lây nhiễm vào một máy tính,
virus có thể tự tìm ra danh sách các
địa chỉ thư điện tử sẵn có trong máy
và tự động gửi đi hàng loạt các thư
điện tử (mass mail) tới những địa
chỉ được tìm thấy
. Nếu người nhận được thư bị nhiễm
virus không biết mà mở thư ra đọc,
virus sẽ tiếp tục lây nhiễm vào máy
của người này, virus lại tiếp tục tìm
danh sách các địa chỉ và tiếp tục gửi
- Lây nhiễm ngay khi mở để đọc
thư điện tử, Lây nhiễm do mở một
liên kết trong thư điện tử.
Lây nhiễm thông qua các file đính
kèm theo thư điện tử
c. Virus lây nhiễm qua mạng
Internet
Một vài hình thức thường được sử
dụng để phát tán virus và phần
mềm độc hại thông qua Internet
như sau:
- Lây nhiễm thông qua các file tài
liệu, phần mềm
- Lây nhiễm khi truy cập vào các
trang web đã được cài đặt virus.
- Lây nhiễm virus hoặc chiếm quyền
điều khiển máy tính.
6.2.4 Dấu hiệu máy tính bị
nhiễm virus
Không có dấu hiệu để khẳng định
chắc chắn máy tính đã bị nhiễm
virus hay chƣa. Chỉ có một số dấu
hiệu chủ yếu cho biết một máy tính
có thể đã bị lây nhiễm virus. Cụ
thể:
-Máy tính chạy chậm hơn so với
bình thƣờng.
-Máy tính bị treo bất thƣờng và bị
treo thƣờng xuyên.
-Máy tính bị treo, sau đó nó tự khởi
động lại vài phút một lần.
- Các phần mềm ứng dụng trên máy
tính không hoạt động hoặc hoạt động
chậm và không bình thƣờng.
- Không tìm thấy một hoặc vài ổ
đĩa. Cung có thể tìm thấy đĩa nhƣng
không thể truy cập đến các tệp tin và
thƣ mục trên đó.
- Không thể tìm thấy tệp tin hoặc
thƣ mục trên đĩa.
- Nội dung tệp tin văn bản bị hỏng
hoặc không đọc được.
- Xuất hiện thông báo lỗi bất thƣờng.
- Hệ thống menu và hộp thoại bị biến
dạng.
- Phần mở rộng của file đính kèm vừa
mở bị nhân đôi
- Chương trình chống virus đang
sử dụng bị vô hiệu hóa không rõ lý
do và chương trình này không thể
đƣợc khởi động lại.
- Xuật hiện một vài biểu tượng lạ
trên màn hình desktop, biểu tượng
đó không liên quan đến bất kỳ
chương trình nào vừa mới cài đặt
trên máy.
- Xuất hiện âm thanh lạ từ loa
của máy tính hoặc máy tính tự động
khởi động chƣơng trình chơi nhạc.
- Một chƣơng trình ứng dụng nào
đó tự động biến mất hoặc bị gỡ bỏ
tự động khỏi máy tính.
- Các tập tin bị nhiễm virus có
thể làm bản sao của chính nó làm
đầy các không gian còn trống trên
đĩa.
- Một bản sao của các tệp tin bị
nhiễm virus có thể đƣợc tự động gửi
đến tất cả các địa chỉ e-mail có
trong danh sách địa chỉ e-mail
- Virus máy tính có thể sẽ tự
động định dạng lại ổ đĩa cứng.
- Virus máy tính có thể sẽ tự
động cài đặt các chƣơng trình ẩn
nhằm theo dõi và điều khiển mọi
hoạt động của máy tính bị nhiễm.
- Virus máy tính làm giảm an
toàn thông tin, điều này có thể cho
phép kẻ xấu truy cập máy tính từ
xa qua hệ thống mạng.
6.2.5 Phòng và diệt virus máy tính
Phòng tránh để hạn chế sự lây nhiễm
virus máy tính là biện pháp cần đƣợc chú
trọng.
Trong trường hợp nhất thiết phải sao
chép hoặc cài đặt chƣơng trình để sử
dụng, trước hết hãy cho quét kiểm tra đĩa
chứa các file cần sao chép bởi một phần
mềm chống virus tin cậy đã được cài đặt
sẵn trên máy trước khi tiến hành sao
chép hoặc cài đặt sử dụng.
Sử dụng phần mềm diệt virus là một
cách khá an toàn và đơn giản để giúp
máy tính phòng và diệt virus, giúp cho
máy tính luôn hoạt động ở chế độ đƣợc
bảo vệ.
Phần mềm diệt virus là phần mềm
có khả năng phát hiện, loại bỏ các
virus máy tính, khắc phục đƣợc một
phần hoặc toàn bộ hậu quả do các
virus máy tính gây ra và có khả
năng đƣợc cập nhật để có khả năng
phát hiện các loại virus mới trong
tƣơng lai.
Nếu thường xuyên dùng máy tính
nối mạng Internet, hay sử dụng
tường lửa (Firewall). Máy tính nên
sử dụng tường lửa để được bảo vệ
trước sự tấn công của virus và các
phần mềm độc hại
Nếu máy tính đang sử dụng hệ điều hành
Windows, hãy cập nhật các bản sửa lỗi
mới nhất của hệ điều hành này. Tin tặc
có thể lợi dụng các lỗi bảo mật của hệ
điều hành để chiếm quyền điều khiển
hoặc phát tán virus và các phần mềm độc
hại.
Người sử dụng luôn cần cập nhật
các bản vá lỗi của Windows thông
qua trang web Microsoft Update
hoặc Windows Update. Cách tốt
nhất hãy đặt chế độ cập nhật tự
động của Windows.
6.3 BẢO TRÌ MÁY TÍNH
6.3.1 Khái niệm
Cũng như các máy móc thiết bị
khác, máy tính không phải lúc nào
cũng hoạt động ổn định và sẵn sàng
đáp ứng yêu cầu của người sử dụng.
Do đó cần thiết phải thực hiện việc
bảo trì
Để máy tính làm việc ổn định, việc
bảo trì máy tính phải được chú
trọng đến cả hai mảng công việc:
(1) Bảo trì phần cứng và các phần
mềm hệ thống (2) Bảo trì phần
mềm ứng dụng.
6.3.2 Bảo trì phần cứng và các phần
mềm hệ thống
a. Bảo trì phần cứng
Bảo trì phần cứng cần được thực
hiện một cách thƣờng xuyên, định
kỳ theo kế hoạch đã lập sẵn. Có thể
chia ra thành các công việc cần
được thực hiện hàng ngày, hàng
tháng và hàng năm.
Các công việc bảo trì hàng
ngày:
Luôn đảm bảo môi trường làm
việc tốt nhất cho máy tính. Đảm
bảo nhiệt độ, độ ẩm, độ sạch của
không khí trong môi trường hoạt
động của máy tính phải được kiểm
soát và nằm trong tiêu chuẩn cho
phép.
Luôn đảm bảo máy tính được cung
cấp nguồn điện ổn định để hoạt động.
Nguồn điện cung cấp nếu không ổn định
sẽ là nguyên nhân dẫn đến các hỏng hóc
không lƣờng trƣớc đƣợc đối với các sự
cố về phần cứng của máy tính.
Các công việc bảo trì hàng tháng:
Kiểm tra lỗi ổ đĩa cứng:
- Làm sạch và dọn dẹp, chống phân
mảnh dữ liệu trên đĩa cứng.
- Đây cũng là công việc quan trọng
cần làm thường xuyên để giúp tăng
tuổi thọ cho ổ đĩa cứng.
Để kiểm tra lỗi hoặc dọn dẹp chống
phân mảnh cho ổ đĩa, có thể sử
dụng các phần mềm chuyên dụng
được tích hợp sẵn trong hệ điều
hành hoặc được phát triển bởi các
hãng thứ ba. Cần lên kế hoạch để
thực hiện công việc này hàng tháng.
Các công việc bảo trì
hàng năm:
-Làm vệ sinh phần cứng bằng
chổi lông nhỏ, mềm và máy hút bụi
chuyên dụng.
-Công việc làm vệ sinh phần cứng
có thể do ngƣời sử dụng tự làm một
cách cẩn thận hoặc cũng có thể nhờ
đến các kỹ thuật viên chuyên
nghiệp trợ giúp thực hiện.
- Kiểm tra tổng thể các thiết bị
phần cứng định kỳ hàng năm.
Người sử dụng nên ký hợp đồng bảo
trì với các kỹ thuật viên chuyên
nghiệp để đảm bảo máy tính đƣợc
kiểm tra tổng thể tất cả các thiết bị
phần cứng
-Việc kiểm tra tổng thể các thiết bị
phần cứng và việc làm vệ sinh các
thiết bị phần cứng nên được thực
hiện đan xen nhau với khoảng cách
thời gian nửa năm, điều này cũng
giúp cho máy tính luôn được làm việc
ở trạng thái sạch và ổn định hơn.
b. Bảo trì các phần mềm hệ thống
Việc bảo trì phần mềm hệ thống cũng
cần phải được thực hiện thường xuyên
theo sự trợ giúp của các kỹ thuật viên.
Bảo trì hệ điều hành
Bảo trì các phần mềm tiện ích
Bảo trì các phần mềm điều khiển thiết bị
Bảo trì phần mềm phòng chống virus
6.3.3 Bảo trì phần mềm ứng dụng
Bảo trì phần mềm ứng dụng bao gồm
việc điều chỉnh các lỗi của phần mềm
mới đƣợc phát hiện trong quá trình sử
dụng; nâng cấp tính năng sử dụng và
tính ổn định khi vận hành của phần
mềm. Bảo trì phần mềm có thể chiếm
đến 70% công sức bỏ ra trong suốt chu
kỳ sống của một phần mềm.
6.3.4 Kiểm tra và khắc phục một vài
sự cố máy tính thông thường
a. Xác định sự cố máy tính qua
những tiếng kêu bíp
Hầu hết các BIOS do các hãng sản xuất
đều đƣợc lập trình để có thể phát ra
những tiếng kêu bip để báo hiệu cho
ngƣời sử dụng biết và chẩn đoán lỗi của
máy tính.
Tuy mỗi hãng sản xuất có