Thông tin là một vũ khí quan trọng nhưng nguy hiểm. Sửdụng không 
khéo hoặc sai lầm sẽgây ra những hậu quảxấu vô cùng to lớn. Chúng ta 
biết, hình ảnh, âm nhạc, khôi hài có thểđánh thẳng vào tình cảm con 
người và làm lu mờkhảnăng phán đoán của lý trí. Ởmỗi quốc gia trong 
cộng đồng xã hội hiện nay, dù ít dù nhiều, bắt buộc phải có một hệthống 
pháp luật đểđiều lý quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói 
riêng.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1786 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương mười bảy Qui chế pháp lý và đạo đức của quảng cáo truyền hình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
CHƯƠNG MƯỜI BẢY 
QUI CHẾ PHÁP LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC 
CỦA QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH 
Thông tin là một vũ khí quan trọng nhưng nguy hiểm. Sử dụng không 
khéo hoặc sai lầm sẽ gây ra những hậu quả xấu vô cùng to lớn. Chúng ta 
biết, hình ảnh, âm nhạc, khôi hài có thể đánh thẳng vào tình cảm con 
người và làm lu mờ khả năng phán đoán của lý trí. Ở mỗi quốc gia trong 
cộng đồng xã hội hiện nay, dù ít dù nhiều, bắt buộc phải có một hệ thống 
pháp luật để điều lý quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói 
riêng. 
Cơ sở pháp lý đó dựa trên 3 nguồn khác nhau : nguồn pháp luật, nguồn 
quy tắc hành chánh và nguồn quy chế tự chủ. 
1)Trong thời đại chúng ta, nói đến nguồn pháp luật là nói đến hiến pháp, 
các bộ luật cơ bản (Fundamental Laws) của nhà nước như dân luật, 
thương luật và hình luật. Hiến pháp bảo vệ quyền tự do ngôn luận của 
người dân cho dù thông tin quảng cáo là thông tin có tính cách hết sức 
đặc thù vì nó phục vụ cho mục đích thương mại. Chính vì cho người ta tự 
do ngôn luận, ta mới có thể bắt buộc họ sử dụng đúng đắn quyền này, 
nghĩa là tự do ngôn luận với điều kiện không đụng chạm đến những 
quyền tự do cơ bản của người khác. Những đạo luật về sử dụng làn sóng 
điện, luật bầu cử, luật về thông tin bằng bích chương, luật về xây cất, về 
tác quyền, về hệ thống đo lường, về bảo vệ sức khoẻ quần chúng... đều 
phát xuất từ nguồn pháp luật cơ bản này. 
2)Nguồn qui tắc hành chánh (Administrative Regulations) là những chỉ 
thị của chính phủ hạn chế sự cạnh tranh bất chính và cấm đoán các hình 
thức độc quyền, quy tắc ngăn cản việc thông tin dối trá dù vô tình hay 
hữu ý. Các quy tắc này nhằm mục đích giúp hoạt động kinh tế được diễn 
ra êm thắm và bảo vệ người tiêu thụ vì họ là những người yếu thế, thiếu 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
thông tin, nếu đem so sánh với phía các nhà sản xuất. 
3) Nguồn thứ ba là những qui chế tự quản nội bộ (Internal Auto-
regulation Principles) do các đoàn thể chuyên nghiệp hội ý với nhau đặt 
ra để ngành nghề của họ được hoạt động một cách có trật tự và không gây 
thiệt hại cho người khác. Để tránh việc phải đi đến chỗ thưa kiện, họ đặt 
ra những quy chế thỏa thuận trước với nhau như một qui luật nội bộ để 
đáp ứng với mọi hoàn cảnh mới và để tìm ra những giải pháp có tính hòa 
giải hơn là tranh tụng. Qui chế tự chủ nhiều khi được thể hiện dưới những 
hình thức như tự kiểm duyệt hay tự hạn chế để giữ an ninh cho xã hội. 
Các đoàn thể chuyên nghiệp không chỉ giới hạn trong giới chủ nhân, các 
hảng quảng cáo mà ngay cả giới truyền thông cũng phải tuân thủ một số 
điều kiện mà ngành nghề của họ đặt ra làm khuôn mẫu. 
Nghề làm quảng cáo có niềm vui của nó nhưng nhiều khi cũng có lúc khổ 
tâm vì hứng chịu búa rìu dư luận. Nhà quảng cáo Pháp Jacques Seguela 
còn nói ví von " Đừng nói với mẹ tôi là tôi làm nghề quảng cáo vì bà cụ 
sẽ tưởng tôi chơi dương cầm trong một nhà thổ ". Câu nói đầy chất khôi 
hài đen này cũng ngụ ý bàn về trách nhiệm của người làm quảng cáo đối 
với quần chúng, trong đó có trách nhiệm trình bày chính xác, trách nhiệm 
khế ước với các phía ngành nghề, trách nhiệm trung thực trong cạnh tranh 
kinh tế, trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của những người tham gia vào việc 
xây dựng phim quảng cáo, trách nhiệm duy trì tự do ngôn luận và trách 
nhiệm giáo dục đối với lớp người trẻ vv... 
Trình bày chính xác nghĩa là không toa rập với chủ quảng cáo bất lương 
để lừa dối dân chúng. Ở điểm này, chính quyền Mỹ kiểm soát rất chặt 
chẽ : Ủy Ban Mậu Dịch Liên Bang (FTC) xem một diễn viên là phạm lỗi 
nếu anh ta quảng cáo cho một món hàng mà trên thực tế anh ta không 
dùng bao giờ. Nói cách khác, mọi người có chân trong quá trình sáng tạo 
và phóng ảnh đều chịu trách nhiệm liên đới về việc bảo vệ an toàn cho 
xã hội. Người quảng cáo và hãng truyền thông phải tuân thủ những quy 
chế trách nhiệm dân sự của đạo luật về trách nhiệm của người chế tạo (PL 
Law hay Product Liability Law). Trách nhiệm khế ước với người trong 
ngành nghề nhất là giữa bộ ba chủ nhân, chế tạo và phóng ảnh được minh 
định trong khế ước mẫu của các hiệp hội mà họ là thành viên. Các quyền 
phải tôn trọng gồm có tác quyền, quyền sử dụng hình ảnh và âm 
thanh...Tác quyền cũa phim quảng cáo rất phức tạp vì người chế tạo có 
thể xem như không có quyền trên nó bởi lẽ họ làm theo đơn đặt hàng của 
chủ quảng cáo. Một mai đây, khi phim ấy được chiếu hay cho nhiều 
người khác thuê lại để dùng ở địa điểm và thời điểm khác, chắc chắn vấn 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
đề tác quyền sẽ cón phức tạp hơn nữa. Hiện nay có người như Y.Okada 
cho rằng phim quảng cáo là của chung cả ba loại người có định líu trong 
quá trình sản xuất : người đặt hàng, người sáng tạo và nhà sản xuất. Tuy 
nhiên, theo quan điểm chung, ưu thế vẫn dành cho người đặt hàng, ít nhất 
đối với quyền sở hữu kinh tế và xã hội của tác phẩm. 
Thử trở lại câu hỏi " Quyền tự do ngôn luận có đặt tác phẩm quảng cáo 
dưới sự che chở của Hiến Pháp không? " Nhiều người cho rằng không bởi 
vì quảng cáo là một loại tin tức có tính cách vụ lợi. Kẻ khác bảo rằng có 
vì những tin tức thời sự vẫn có thể có tính chất vụ lợi và thiên vị chứ 
đừng nói đến thông tin thương mại. Dầu vậy, hầu như mọi người đầu 
đồng ý rằng quảng cáo không có quyền kỳ thị, đàm tiếu về một chủng tộc 
(da đen / da trắng) , một phái tính (đàn ông / đàn bà), một khuyết tật (mù / 
qùe)hay một giai cấp ( quí tộc / thợ thuyền) để gây chia rẻ. Riêng về giáo 
dục thì khơi gợi cho thanh thiếu niên ham mê cờ bạc, sống bừa bãi, thiếu 
trách nhiệm... là những điều đáng phê phán. Không những thế, quảng cáo 
truyền hình còn có mục đích nâng cao dân trí. Ở Nhật, ngôn ngữ trên 
truyền hình đặt đối tượng là khán thính giả ít nhất có từ 9 (Đài NHK) đến 
12 năm (đài TBS, đài NET) đi học. 
Đồ biểu 17.1 : Hệ thống Pháp lý về quảng cáo trong kinh tế thị truờng 
Luật Cơ Bản Luật Hiến Pháp, Dân Luật, Thương Luật, Hình 
Luật 
Luật Hành Chánh Luật Chống Độc Quyền (Anti-Trust Law)?Luật 
Trách Nhiệm Của Người Chế Tạo (P/L Law), Luật 
Thông Tin, Luật Bầu Cử 
Qui Định Hành 
Chánh 
Bao Quát : Qui Định về Chống Cạnh Tranh Bất 
Chính, về Lối Biểu Hiện Trong Quảng cáo...Qui 
Ước về Cạnh Tranh Công Chính. 
 Đặc Thù : Qui Định về Nhãn Hiệu, về Vệ Sinh 
Công Cộng, về Thực Phẩm, về Y Dược Phẩm, Qui 
Chế Sử Dụng Điện Ba... 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
Qui Chế Tự Quản 
của Ngành Quảng 
Cáo 
Qui Chế Tự Kiểm Duyệt, Qui Phạm Luân Lý Đạo 
Đức của những giới liên quan đến Quảng cáo 
Nguyên tắc tự quản tự chế (self regulation) là nguyên tắc cơ bản của 
nghề quảng cáo nhưng đến nay, không phải bất cứ nước nào cũng đã đạt 
đư ợc trình độ ấy. Nếu Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ cũng 
như Nhật Bản đứng trong trận doanh này, hãy còn nhiều nước chưa đủ 
chín muồi để chấp nhận nó. Một số nước mới theo được nửa chừng (Đan 
Mạch, Thụy Điển, Do Thái, Đại Hàn, Ấn Độ, Mê-hi-cô...) và một số nước 
khác hầu như không có đường hướng gì cả (Pa-kix-tan, In-đô-nê-xia, 
Hương Cảnh, Thái Lan, Ả-Rập Xâu- Đi...).Người ta nhận thếy các nước 
cựu thuộc địa (như Bắc Phi) thường áp dụng quy luật của nứơc cai trị cũ 
(như Pháp) và ngay cả những nước có chế độ tự quản như Nhật, họ vẫn 
còn xem điều lệ hành chánh nhà nước mới là khuôn vàng thước ngọc. 
Chúng ta có thể khai triển thêm một vài điểm quan trọng trong qui chế 
pháp lý và luận lý liên quan đến quảng cáo truyền hình. 
A) Gíơi hạn thời giờ quảng cáo (Restraints in Advertising) để bảo vệ 
phẩm chất sinh hoạt xã hội 
Quảng cáo về những sản phẩm gây nghiện ngập và có hại đến sức khỏe 
như thuốc lá hay rượu đều được quy định kỹ càng nếu không nói đã bị 
cấm đoán ở nhiều nước. Năm 1996, chính quyền Clinton ở Mỹ đưa ra 
một loạt giải pháp để giới hạn việc rao bán thuốc lá cho thiếu niên dưới 
18 tuổi, và trước đó, Ủy ban Thực phẩm và Dược Phẩm Quốc Gia (Food 
and Drug Administration) khi giới hạn rõ ràng việc quảng cáo thuốc lá, 
đã gặp phải sự chống đối của các nhà sản xuất và đi đến tranh tụng trước 
tòa án. 
Âu Châu từ 1992 hầu như ra lệnh cấm tất cả các loại quảng cáo thuốc lá 
trên toàn cõi nhưng cũng gặp sự chống đối của một số quốc gia thành 
viên (Đức, Hòa Lan, Anh, Đan Mạch và Hy Lạp). Dù sao, quảng cáo 
thuốc lá đã bị cấm trên truyền hình ở Âu Châu. Các nước như Nhật, Gia 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
Nã Đại, Úc, Tân Tây Lan , Ấn Độ và Trung Quốc cũng đã đi theo hướng 
đó. 
Tháng năm năm 1994, Bộ Y Tế Xã Hội Mỹ đã đi đến một thoả hiệp với 
giới doanh thương thuốc lá là những người này sẽ giảm tiền quảng cáo 
ngoài trời dùng vào quảng cáo thuốc lá 40% trong vòng 5 năm, không 
được dán bích chương quảng cáo thuốc là trong vòng 200m cách trường 
học và mọi quảng cáo thuốc lá phải nói đến tính chất độc hại của nó. Mọi 
hình thức quảng cáo thuốc lá phải được giải tỏa trước cuối năm 1997. 
Quảng cáo rượu cũng bị giới hạn, đặc biệt trên truyền hình. Giới hạn 
này nghiêm khắc ở Bắc Mỹ và Âu Châu Tất cả đều loại thức uống có trên 
1,2% độ cồn đều được xem như rượu. Người quảng cáo không được dùng 
những diễn viên dưới 25 tuổi trong phim quảng cáo rượu. Tất cả nghị 
luận nhằm xem việc uống rượu như một thử thách trên quá trình trở thành 
người lớn, để tăng cường khả năng tình dục, để chữa bệnh, đều phải loại 
bỏ. Quảng cáo cho việc uống rượu bằng cách đề cao nam tính cũng xem 
như không thích hợp. Ở Âu châu, Luật Evin (mang tên cựu Bộ Truởng 
Bộ Xã Hội Pháp Claude Evin) cấm quảng cáo rượu một cách chặt chẽ đến 
nỗi không cho phép các cuộc trình diễn thể thao được quảng cáo rượu và 
làm cho nhiều cuộc trình diễn không thành vì thiếu người bảo trợ tài 
chánh. Ở Anh, không được dùng những nhân vật hoạt họa để quảng cáo 
rượu nếu nó có thể lôi cuốn trẻ em. Dĩ nhiên, trong các quốc gia Hồi giáo, 
quảng cáo rượu bị cấm đoán nghiêm ngặt vì lý do tôn giáo. 
Quảng cáo cho trẻ em cũng là đối tượng của kiểm soát nhất là trong tình 
huống những năm gần đây khi sự quảng cáo này gia tăng. Trẻ em vốn 
không có phương tiện chống cự lại ảnh hưởng của quảng cáo và nhất là 
qua quảng cáo đối với trẻ em người ta có thể lôi cuốn cả người lớn vì cha 
mẹ chìu chuộng con, nhiều khi nghe theo ý chúng. Do đó, dư luận đã gây 
áp lực để giới hạn quảng cáo hướng về trẻ em. Các thành viên của thị 
trường chung Âu Châu (EU), đã ngăn cấm nghiêm khắc, không cho phép 
quảng cáo trong chương trình dành cho trẻ em. Đó là trường hợp các 
quốc gia như Bỉ, Na uy, Tây ban nha, Thụy điển và Hy lạp. Các nước 
khác cũng có các biện pháp ngăn ngừa tối thiểu. Anh quốc đã ghi rõ điều 
đó trong đạo luật về thông tin đại chúng năm 1990 (Broadcasting Act) và 
trong pháp chế về quảng cáo (British Codes of Advertising). Ở Bỉ, năm 
phút trước và sau chương trình truyền hình cho trẻ em, không được phép 
phóng ảnh quảng cáo. Ở Hy lạp, quảng cáo đồ chơi bị cấm đến 10 giờ tối, 
lúc trẻ em đi ngủ. Thụy điển cấm tất cả mọi thứ quảng cáo cho trẻ em 
dưới 12 tuổi và nước này đã đề nghị với tất cả các thành viên của thị 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
trường chung Âu Châu cùng áp dụng luật lệ này. Gia nã đại tuy là nước 
ngoài EU cũng theo biện pháp này. Ở Tây Ban Nha, quảng cáo truyền 
hình đồ chơi có tính cách chiến tranh cũng sắp bị ngăn cấm. Mỹ đã có 
Đơn vị kiểm tra Quảng cáo cho thiếu nhi (Children 's Advertising Review 
Unit = CARU) do Phân Bộ Quảng cáo Quốc Gia (National Advertising 
Division = NAD), của Ủy Ban Phẩm Chất Hóa Thương Nghiệp (Council 
of Better Business Bureaus = CBBB) đứng ra tổ chức. 
S. Monye cho biết Na uy cấm mọi hình thức quảng cáo cho trẻ em và 
ngăn chặn cả những chương trình quảng cáo của nước khác xâm nhập vào 
lãnh thổ mình dù Na uy đã bại tố trước toà án của Khu Vực Mậu Dịch Tự 
Do Châu Âu (EFTA=European Free Trade Area). Luật Thụy Điểm ngăn 
cấm quảng cáo cho trẻ em dưới 12 tuổi cũng gặp khó khăn tương tự khi 
Pháp đình Âu Châu (ECJ= European Court of Justice) phán quyết rằng 
Thụy Điển không có quyền đó đối với những quảng cáo từ các quốc gia 
trong khối dã vượt biên giới (trên trời) để vào Thụy Điểm (án lệ ngày 17 
tháng 9 năm 1996). Phán quyết này nằm trong khuôn khổ của Chỉ thị của 
thị trường chung về truyền hình không biên giới (European Television 
Without Frontiers Directive). 
Cũng theo S. Monye, hiện nay Hoa Kỳ đang đẩy mạnh việc phát triển kỹ 
thuật một loại hồi lộ điện tử (V-chip) cho phép người xem truyền hình 
ngăn chặn những chương trình không thích hợp với họ (tình dục, bạo lực, 
quảng cáo) ra ngoài. Âu Châu đang theo dõi kỹ thuật này và từ năm 1996, 
Quốc Hội Châu Âu xem việc đặt máy "thanh lọc chương trình" là một 
nghĩa vụ một khi máy lọc này được nhận là đ úng tiêu chuẩn bởi các nhà 
chức trách Châu Âu. 
Qua những mục tiêu của Ủy Ban Mậu dịch Liên Bang (Federal Trade 
Commission) đặt ra, ta có thể suy luận là trong nền kinh tế thị truờng, 
thương điệp quảng cáo phải phù hợp với 5 quy luật sau đây: 
1) Phát biểu dựa trên cơ sở đứng đắn (nhất là những điểm liên quan đến 
sức khỏe, an toàn, giá cả và phẩm chất). 
2) Phát biểu thiếu chính xác phải đính chính trước công luận. 
3) Gây phương hại phải bồi thường. 
4) Tiết lộ một số thông tin cần thiết ( ví dụ thuốc lá có hại như thế nào?) 
5) Phát biểu dầu chính xác nhưng không phổ quát cũng không thích đáng 
(ví dụ việc rươụ vang uống với liều lượng nhỏ có lợi cho sức khỏe) 
Ngoài ra quảng cáo về đánh cuộc hoặc vay mượn bị cấm trong nhiều 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
nước ở Âu Châu. Nhật Bản tuy là cường quốc kinh tế lại là một trong 
những nước tiên tiến về mặt tổ chức xã hội, vẫn còn dung thứ quảng cáo 
rượu, cá ngựa, cho vay lấy lãi trên truy ền hình và dùng những thủ pháp 
"tình cảm" để khuyến dụ nhiều hơn là giải thích. Điều này vẫn là đối 
tượng phản đối của dư luận trong và ngoài nước. 
B) Qui chế tự quản của quảng cáo truyền hình (Self Regulation in 
Advertising) 
Trong vòng mười lăm năm trở lại đây, vấn đề tự quản lý nội dung quảng 
cáo bởi những hội đoàn và người trong nghề (chủ quảng cáo, hãng quảng 
cáo, người chế tác và đài truyền hình) kể từ khi có những quảng cáo bị 
coi là phi đạo đức (unethical) như quảng cáo của hãng y phục YÙ 
Benetton, dùng quân phục vấy máu của một người lính bị giết trong chiến 
tranh ở Bosnia, cựu Yu-go-sla-vi-a. Hãng này còn dùng những hình ảnh 
dung tục (bao nhựa ngừa thai xanh đỏ) hay khiêu khích có tính cách tôn 
giáo (chúa Ki Tô bị đóng đinh, hai tu sĩ nam nữ hôn nhau). 
Dĩ nhiên là quảng cáo phải tuân theo pháp luật nhưng có những điều pháp 
luật không định rõ ràng vì quảng cáo có thiên hình vạn trạng. Cho nên, 
người trong nghề phải tự kiểm duyệt và tự quản lý việc làm của mình, 
nâng cao tiêu chuẩn nghề nghiệp và biết nghe những nhận xét hoặc bất 
bình từ phía khán thính giả để cải thiện. 
Hội các nhà sản xuất thương điệp truyền hình Nhật bản (JAC hay Japan 
Association of TV Commercial Production Companies) (theo Abe 
Masaichi) đã lập ra một quy chế gồm 9 chương trong đó 6 chương nói 
đến nghĩa vụ về cách diễn tả khi sáng tác và 3 chương về nghĩa vụ khi 
sản xuất phim quảng cáo.Có thể tóm lược những điểm chính như sau : 
- Chương 1 (Nghĩa vụ cơ bản) : Quảng cáo truyền hình không được gây 
ngộ nhận, không được khoa trương, không được bài báng hay làm tổn 
thương, không được dối trá, không được làm dao động lòng người, không 
được tục tỉu hạ cấp. 
- Chương 2 (Nghĩa vụ đối với nhân quyền) : Quẩng cáo truyền hình 
không đuợc coi thường mạng sống, phương hại đến các quyền tài sản, 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
danh dự và hình ảnh người khác, không được đụng chạm đến đời tư, 
không được khuyến khích mua dâm bán dâm, không được kỳ thị chủng 
tộc, giới tính, chức nghiệp, tôn giáo, cảnh ngộ, hình thù hay thương tật 
trên thân thể. 
- Chương 3 (nghĩa vụ đối với pháp luật và chính trị : Quảng cáo truyền 
hình phải tôn trọng các pháp lệnh, không được xúc phạm đến quyền uy 
nhà nước, không được châm ngòi gây xung đột giữa các sắc tộc, chủng 
tộc, quốc dân, phải tôn trọng quốc kỳ, quốc ca, tình thân thiện quốc tế, 
không được hây hiểu lầm hay rối loạn trong đời sống kinh tế và chính trị. 
- Chương 4 (nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội) : Quảng cáo truyền hình 
không được có những biểu hiện có thể phá hoại sinh hoạt và trật tự gia 
đình, chế độ hôn nhân, thuần phong mỹ tục, đạo đức thường thức, bài 
báng dè bỉu về thân thể hay tiếng nói, không dùng ngôn nhữ ám chỉ kỳ 
thị, không xúc phạm đến tôn giáo, không được phổ biến tập tục mê tín, cổ 
lỗ. 
- Chương 5 (nghĩa vụ đối với nhi đồng và thanh thiếu niên) :Quảng cáo 
không được dựa trên những hình ảnh xấu xa để lớp trẻ bắt chước, không 
được tuyên truyền cho hành vi bạo lực. 
- Chương 6 (nghĩa vụ đối với phái tính): Quảng cáo không được đưa ra 
những hình ảnh khỏa thân hay liên quan đến tình dục thiếu thẩm mỹ hay 
chỉ để gợi dục. 
Ở Âu Châu, phong trào tự quản lý rất phổ biến Năm 1992, Liên đoàn 
Âu Châu về Tiêu chuẩn Quảng cáo (European Advertising Standards 
Alliance) đã được thành lập, khích lệ và hỗ trợ việc tự điều lý (Self 
Regulation) của ngành quảng cáo trên toàn cõi Âu Châu. Mục đích cụa họ 
như sau : 
1) Nghiên cứu và thúc đẩy việc áp dụng quy chế tự quản trong ngành 
quảng cáo; 
2) Kết hợp các hội đoàn tự quản lý ở Âu Châu để đi đến việc lập một cơ 
sở chung ; 
3) Tìm cách thống nhất những quy chế hiện có; 
4) Chứng minh là đối với ngành quảng cáo, sự tự quản lý có hiệu quả lớn 
hơn là pháp luật ; 
5) Thúc đẩy việc thành lập một hệ thống trọng tài để giải quyết những bất 
bình đến từ các quốc gia trong vùng; 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường 
6) Trở thành một nguồn thông tin, một cơ quan định hướng và cố vấn cho 
những ai thắc mắc về việc tự quản lý; 
7) Khuyến khích việc thành lập mọi nơi ở Âu châu những tổ chức tự quản 
lý và tăng cường những tổ chức đã ra đời. 
Điều đáng chú ý là Liên Đoàn đã hấp dẫn cả những nước cựu Đông Âu 
như Tiệp (Czech) và Khắc (Slovak), Slô -vê -ni, ngay cả Phần Lan lẫn 
Nam Phi. Việc tự quản lý cũng gặp nhiều chống đối vì người ta nghĩ giới 
quảng cáo thường đặt quyền lợi thương mại của họ lên trên lợi ích công 
cộng và có cơ làm vô hiệu hóa luật lệ nhà nước. Nói cho cùng, quy chế tự 
quản chỉ có hiệu lực khi nó được hỗ trợ bởi một hệ thống pháp lý thích 
hợp để ngăn chặn mọi ý định " xé rào " của người làm quảng cáo. 
Những qui chế nói trên vẫn chưa đủ để ngăn chặn sự lạm dụng của người 
quảng cáo tác hại đến đời sống của giới tiêu thụ nói riêng và quần chúng 
nói chung. Rotzoll và Haefner có lý khi thêm vào đó hai lực lượng có thể 
góp phần vào việc quan phòng lĩnh vực quảng cáo bên cạnh các cơ quan 
nhà nuớc và nghề nghiệp. Đó là sức điều chỉnh tự nhiên của thị trường 
và lực lượng các đoàn thể người tiêu thụ. 
Trước tiên, thị trường có thể điều tiết một cách tự nhiên (Natural Market 
Forces) như theo định luật kinh tế của Adam Smith đề ra, nghĩa là người 
tiêu thụ bất mãn sẽ bỏ đi không thèm nghe những lời quảng cáo phỉnh 
phờ và người quảng cáo phải trở về nẻo chánh nếu không muốn bị mất 
hoàn toàn tín nhiệm và đứng ngoài cuộc cạnh tranh. 
Hai nữa, những đoàn thể người tiêu dùng (consumer movement) biết 
đoàn kết lại để tranh đấu tập thể ngang tay với người sản xuất. Tụ họp lại 
được với nhau, họ sẽ có kiến thức chuyên môn nhiều hơn và có đủ vũ khí 
để đối kháng mạnh mẽ. Đoàn thể người tiêu dùng đã xuất hiện ở thành 
phố Rochdale, nuớc Anh từ năm 1844 (theo Rotzoll và Haefner). Ở Mỹ, 
chính phủ và các đoàn thể người tiêu dùng đã chung sức chống lại sự 
buông thả của giới sản xuất vào thời Đại khủng hoảng năm 1929 nhưng 
phải đợi đến năm 1962, với giáo thư của tổng thống Kennedy gửi cho 
quốc hội, bốn " quyền của người tiêu dùng " (quyền được hưởng sự an 
toàn, quyền được thông báo, quyền được lựa chọn và quyền có tiếng nói) 
mới được nhấn mạnh và kết tinh bằng những đạo luật bảo vệ người tiêu 
thụ và trẻ em. 
Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường