Với quan điểm hội nhập quốc tế không
phải chỉ để “nhận” mà còn để “cho”, chúng ta cần phải
tích cực, chủ động giới thiệu, quảng bá để bạn bè thế
giới hiểu hơn về Việt Nam. Trong vô vàn cách quảng
bá thì quảng bá thông qua ngôn ngữ, có thể nói, là một
trong những con đường hiệu quả và mang tính “bền
vững” hơn cả.
Có thể nói, hiện nay, số người nước ngoài đến học
tập, nghiên cứu và làm việc ở Việt Nam có nhu cầu học
tiếng Việt ngày càng nhiều hơn. Ngôn ngữ chính là
công cụ có vai trò như một chiếc cầu nối, là chìa khoá
giúp họ- những người nước ngoài đến từ những nền
văn hoá khác, đến với Việt Nam, đi sâu nghiên cứu
Việt Nam. Trong bài viết này, trước hết tôi muốn trình
bày một số nhận xét (có thể phần nào mang tính chủ
quan) về thực trạng chương trình đào tạo và một số
vấn đề liên quan đến tài liệu giảng dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, cũng như đưa
ra một số kiến nghị cho vấn đề này.
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, các cơ sở
đào tạo tiếng Việt đã rất cố gắng trong việc đào tạo
theo những thế mạnh riêng của mình. Tuy nhiên, điều
chúng ta dễ nhận thấy ngay là chương trình đào tạo
không có một sự chuẩn hóa nào đang được thực hiện
tràn lan. Đành rằng khi “có cung thì sẽ có cầu”, đành
rằng lợi nhuận cũng là yếu tố quan trong trong lĩnh vực
đào tạo hiện nay, nhưng việc chuẩn hóa chương trình
đào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài để có được
một chương trình thống nhất cho các cơ sở đào tạo,
tiến tới thực hiện một chiến lược đào tạo chuyên
nghiệp, lâu dài là vô cùng cần thiết.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo cho sinh viên thì
giáo trình là một yếu tố rất quan trọng quyết định sự
thành công hay không của chương trình. Thực trạng về
giáo trình và tài liệu giảng dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, theo đánh giá của
chúng tôi thì vừa thừa, vừa thiếu, vừa không có hệ
thống và hầu như chưa có sự kiểm định chất lượng,
đánh giá thống nhất. Trên thực tế, ở Việt Nam, chưa hề
có bất kì một chương trình tiếng Việt chuẩn nào dành
cho người nước ngoài. Và khi cái gốc này đã không có
thì tất cả những gì dựa vào nó cũng đều chỉ mang tính
“tạm thời”. Theo đó, việc phân chia trình độ (A, B, C
hay Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp, nâng cao.) xét cho
cùng, cũng là vô căn cứ. Mỗi đơn vị tự định ra một
“chuẩn”, người học học hết sách này được coi là hết
trình độ A, hết sách kia được coi là hết B hay C; bài
thi/kiểm tra đánh giá trình độ cũng mỗi nơi một kiểu.
Đối với đối tượng người nước ngoài muốn học tại các
trường đại học ở Việt Nam, chúng ta cũng hoàn toàn
không có hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ theo một
chuẩn nhất định.
Thiết nghĩ, đã đến lúc chúng ta không phải chỉ quan
tâm đến “bề rộng” mà còn phải chú trọng đến “chiều
sâu” của công tác này.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 140 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương trình đào tạo và giáo trình giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
506
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO VÀ GIÁO TRÌNH GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT
CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nguyn Th Thanh Xuân
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t
t: Với quan điểm hội nhập quốc tế không
phải chỉ để “nhận” mà còn để “cho”, chúng ta cần phải
tích cực, chủ động giới thiệu, quảng bá để bạn bè thế
giới hiểu hơn về Việt Nam. Trong vô vàn cách quảng
bá thì quảng bá thông qua ngôn ngữ, có thể nói, là một
trong những con đường hiệu quả và mang tính “bền
vững” hơn cả.
Có thể nói, hiện nay, số người nước ngoài đến học
tập, nghiên cứu và làm việc ở Việt Nam có nhu cầu học
tiếng Việt ngày càng nhiều hơn. Ngôn ngữ chính là
công cụ có vai trò như một chiếc cầu nối, là chìa khoá
giúp họ- những người nước ngoài đến từ những nền
văn hoá khác, đến với Việt Nam, đi sâu nghiên cứu
Việt Nam. Trong bài viết này, trước hết tôi muốn trình
bày một số nhận xét (có thể phần nào mang tính chủ
quan) về thực trạng chương trình đào tạo và một số
vấn đề liên quan đến tài liệu giảng dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, cũng như đưa
ra một số kiến nghị cho vấn đề này.
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, các cơ sở
đào tạo tiếng Việt đã rất cố gắng trong việc đào tạo
theo những thế mạnh riêng của mình. Tuy nhiên, điều
chúng ta dễ nhận thấy ngay là chương trình đào tạo
không có một sự chuẩn hóa nào đang được thực hiện
tràn lan. Đành rằng khi “có cung thì sẽ có cầu”, đành
rằng lợi nhuận cũng là yếu tố quan trong trong lĩnh vực
đào tạo hiện nay, nhưng việc chuẩn hóa chương trình
đào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài để có được
một chương trình thống nhất cho các cơ sở đào tạo,
tiến tới thực hiện một chiến lược đào tạo chuyên
nghiệp, lâu dài là vô cùng cần thiết.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo cho sinh viên thì
giáo trình là một yếu tố rất quan trọng quyết định sự
thành công hay không của chương trình. Thực trạng về
giáo trình và tài liệu giảng dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, theo đánh giá của
chúng tôi thì vừa thừa, vừa thiếu, vừa không có hệ
thống và hầu như chưa có sự kiểm định chất lượng,
đánh giá thống nhất. Trên thực tế, ở Việt Nam, chưa hề
có bất kì một chương trình tiếng Việt chuẩn nào dành
cho người nước ngoài. Và khi cái gốc này đã không có
thì tất cả những gì dựa vào nó cũng đều chỉ mang tính
“tạm thời”. Theo đó, việc phân chia trình độ (A, B, C
hay Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp, nâng cao...) xét cho
cùng, cũng là vô căn cứ. Mỗi đơn vị tự định ra một
“chuẩn”, người học học hết sách này được coi là hết
trình độ A, hết sách kia được coi là hết B hay C; bài
thi/kiểm tra đánh giá trình độ cũng mỗi nơi một kiểu.
Đối với đối tượng người nước ngoài muốn học tại các
trường đại học ở Việt Nam, chúng ta cũng hoàn toàn
không có hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ theo một
chuẩn nhất định.
Thiết nghĩ, đã đến lúc chúng ta không phải chỉ quan
tâm đến “bề rộng” mà còn phải chú trọng đến “chiều
sâu” của công tác này.
Abstract: As international integration refers to not
only “receiving” but also “giving”, we need active
introduction and promotion for foreigners to have better
understandings about Vietnam. Among various
promotions, it can be said that language is one of the
most effective and sustainable ways to promote.
It can be said that nowadays, more and more
foreigners coming to Vietnam for study, research and
work demand for learning Vietnamese. Language is a
tool which acts as a bridge, a key to help them –
foreigners from other cultures to explore Vietnam. In
this article, the author would like to provide some
comments (which are somehow subjective) on current
situation of training programs and some issues relevant
to Vietnamese teaching materials for foreigners, as well
as to introduce some recommendations.
In fact, Vietnamese training institutions have made
bold attempt in providing training based on their own
strengths. However, it can be easily noticed that non-
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
507
standardized training programs are used widely.
Despite the fact that where this is a demand, there is a
supply, and that profit is an important factor in training
sector nowadays, it is extremely necessary to
standardize Vietnamese training programs for
foreigners to design a consistent program for all
Vietnamese training institutions, a basic to implement a
long-term and professional training strategy.
It is assessed that the current Vietnamese teaching
materials and curriculum for foreigners in Vietnam are
not systemized and evaluated properly. In fact, in
Vietnam, there is no standardized Vietnamese training
program for foreigners. As a result, everything is
“temporary”. The competence division (A, B, C or pre-
intermediate, intermediate, upper-intermediate,
advanced) seems clueless. Each institution sets up
its own standards, the number of books learnt is used
to assess learners’ competence; tests/evaluations are
different in each area. We do not have any
standardized assessment system for Vietnamese-
majored foreign students. It is time for us not only to pay
attention to the “width” but also the “depth” of this issue.
1. Đặt vấn đề
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa mạnh mẽ
như hiện nay, các trường đại học trên thế giới
đang cạnh tranh gay gắt trong việc tuyển sinh sinh
viên quốc tế vì hai mục đích giáo dục và lợi ích
kinh tế. Theo đó, giáo dục đại học “xuyên biên
giới” là hướng đi tất yếu trong bối cảnh giáo dục
mới ngày nay.Khi đã là thành viên chính thức của
WTO, giáo dục của Việt Nam cũng không thể
năm ngoài xu hướng tất yếu đó.
Như chúng ta đều biết, sau gần ba mươi năm
mở cửa, Việt Nam đã và đang hội nhập mạnh mẽ
với thế giới và cũng ngày càng được thế giới biết
đến và quan tâm đến nhiều hơn. Điều này thể hiện
rất rõ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
kể cả trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật.
Số người nước ngoài đến học tập, nghiên cứu
và làm việc ở Việt Nam có nhu cầu học tiếng Việt
cũng nhiều hơn bao giờ hết. Có thể nói, ngôn ngữ
chính là công cụ có vai trò như một chiếc cầu nối,
là chìa khoá giúp họ- những người nước ngoài đến
từ những nền văn hoá khác, đến với Việt Nam, đi
sâu vào nghiên cứu Việt Nam.
Với quan niệm “mở cửa”, “hội nhập” không
phải chỉ để “nhận” mà còn để “cho”, chúng ta cần
phải tích cực, chủ động giới thiệu, quảng bá về đất
nước mình để bạn bè thế giới hiểu hơn về Việt
Nam. Trong vô vàn cách quảng bá thì quảng bá
thông qua ngôn ngữ, có thể nói, là một trong
những con đường hiệu quả và mang tính “bền
vững” hơn cả. Thế giới, vũ trụ là khách quan,
nhưng mỗi dân tộc lại có cách nhìn nhận, chia cắt
thế giới theo cách riêng của mình và ngôn ngữ của
mỗi dân tộc là nơi định hình cái nhãn quan mang
bản sắc của dân tộc đó. Do vậy, học một ngôn ngữ
là biết thêm một nền văn hóa, bởi ngôn ngữ chính
là tấm gương phản ánh đặc trưng văn hóa dân tộc.
Trở lại với nhận định nêu trên, để “hội nhập”,
chúng ta cần phát triển, mở rộng hơn nữa việc dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài. Thực tế cho thấy
số lượng các trung tâm dạy tiếng Việt ở trong
nước và nước ngoài cũng như số người có nhu cầu
học có xu hướng ngày càng tăng; số giáo trình, tài
liệu giảng dạy, hỗ trợ giảng dạy và học tiếng Việt
cũng tăng lên, nhưng sự “bùng nổ” này có vẻ như
theo kiểu “mạnh ai người nấy làm”, mỗi người
một kiểu, phục vụ mục đích riêng của mình.
Trong bài viết này, trước hết tôi muốn trình
bày một số nhận xét, có thể phần nào mang tính
chủ quan, về thực trạng chương trình đào tạo và
một số vấn đề liên quan đến tài liệu giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay,
cũng như đưa ra một số kiến nghị cho vấn đề này.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng về chương trình đào tạo
tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam
hiện nay
Ngay sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới, do nhu cầu học tiếng Việt, tìm hiểu về Việt
Nam của người nước ngoài ngày càng tăng, ở Việt
Nam đã xuất hiện nhiều trung tâm giảng dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài. Mô hình dạy tiếng
Việt thời gian đầu là lớp học một thầy, một trò;
giáo trình giảng dạy tiếng Việt lúc đó còn rất hiếm,
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
508
chủ yếu là do các trung tâm tiếng Việt tự biên soạn.
Hiện nay, tại nhiều cơ sở đào tạo, chương trình
tiếng Việt đã được phân chia thành Tiếng Việt cơ
sở trình độ A, Tiếng Việt trung cấp trình độ B,
Tiếng Việt nâng cao trình độ C, Tiếng Việt chuyên
sâu theo các kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết), Tiếng
Việt chuyên ngành (ngôn ngữ học, lịch sử, văn
hóa, văn học nghệ thuật,...).
Ngoài ra, một số cơ sở đào tạo còn giới thiệu
các khóa học tiếng Việt cho người nước ngoài
(Tiếng Việt sơ cấp, Tiếng Việt trung cấp, Tiếng
Việt cao cấp, Tiếng Việt đàm thoại cấp tốc 3
tháng, Tiếng Việt cho người nội trợ, tiếng Việt dự
bị đại học cho sinh viên nước ngoài).
Trong khoảng mười năm trở lại đây, việc dạy
và học tiếng Việt đã bước sang một giai đoạn mới
khi các cơ sở đào tạo không dừng lại ở các khóa
học ngắn hạn và trung hạn nữa mà còn có cả
chương trình cử nhân chính quy dài hạn hệ 0+4,
1+3, 2+2 (sinh viên được đào tạo tại chính đất
nước của họ một thời gian theo quy định và thời
gian còn lại học tại Việt Nam). Đối tượng sinh
viên học hệ cử nhân chính quy là sinh viên ngành
Việt Nam học ở nhiều nước trên thế giới, nhưng
chủ yếu là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Thái Lan, Ba Lan, Nga.
Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thông qua và
cho triển khai thực hiện đào tạo đại học Việt Nam
học (1997) và đặc biệt là khi Bộ Giáo dục ban
hành văn bản cho phép các trường đại học cao
đẳng phát triển ngành đào tạo Khu vực học trong
đó có Việt Nam học (2003) thì số trường đại học
và cao đẳng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam mở
mã ngành Việt Nam học ngày càng tăng. Dù học
hệ đào tạo nào thì việc học tiếng Việt cũng là
điểm khởi đầu của những người nước ngoài quan
tâm đến Việt Nam và tiếng Việt. Cho đến nay, tại
Việt Nam đã có rất nhiều cơ sở đào tạo Việt Nam
học và tiếng Việt cho người nước ngoài hệ cử
nhân. Tuy nhiên, chương trình đào tạo tại tất cả
các cơ sở đào tạo không mấy thống nhất do Việt
Nam học là một ngành mới và quan niệm của các
cơ sở đào tạo về giảng dạy Việt Nam học và tiếng
Việt cho lưu học sinh có sự khác nhau cho nên
việc thiết kế chương trình cũng khác nhau. Qua
quan sát và tập hợp tư liệu, chúng tôi nhận thấy
chương trình giảng dạy cho người nước ngoài tại
Việt Nam hiện đang đi theo mấy hướng chính sau:
- Chương trình đào tạo thiên về du lịch
- Chương trình đào tạo thiên về ngôn ngữ
- Chương trình đào tạo thiên về văn hóa-xã hội
- Chương trình đào tạo tiếng Việt như một
ngoại ngữ theo định hướng nghề nghiệp
Có thể nói, trong thời gian qua, các cơ sở đào
tạo tiếng Việt đã rất cố gắng trong việc đào tạo
theo những thế mạnh riêng của mình. Tuy nhiên,
điều chúng ta dễ nhận thấy ngay là chương trình
đào tạo không có một sự chuẩn hóa nào đang được
thực hiện tràn lan, thực hiện ở bất cứ cơ sở đào tạo
nào có học viên nước ngoài muốn học tiếng Việt.
Đành rằng khi “có cung thì sẽ có cầu”, đành rằng
lợi nhuận cũng là yếu tố quan trong trong lĩnh vực
đào tạo hiện nay, nhưng việc chuẩn hóa chương
trình đào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài để
có được một chương trình thống nhất cho các cơ
sở đào tạo, tiến tới thực hiện một chiến lược đào
tạo chuyên nghiệp, lâu dài là vô cùng cần thiết.
2.2. Thực trạng về giáo trình, tài liệu giảng
dạy tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay
Để đảm bảo chất lượng đào tạo cho sinh viên
thì giáo trình là một yếu tố rất quan trọng quyết
định sự thành công hay không của chương trình.
Thực trạng về giáo trình và tài liệu giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam hiện
nay, theo đánh giá của chúng tôi thì vừa thừa, vừa
thiếu, vừa không có hệ thống và hầu như chưa có
sự kiểm định chất lượng, đánh giá thống nhất.
Trong một bài viết đề cập đến vấn đề này tại Hội
thảo về nghiên cứu, đào tạo Việt Nam học và
tiếng Việt nhân kỷ niệm 45 năm thành lập Khoa
Việt Nam học và tiếng Việt của Trường ĐH
KHXH và NV, chúng tôi cũng đã từng đề cập đến
vấn đề này (7). Cụ thể, chúng tôi tạm chia số
lượng giáo trình, tài liệu hiện đang được dùng để
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo tiếng Việt theo hai
loại chính sau đây:
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
509
Thứ nhất là giáo trình thực hành tiếng Việt. Có
thể nói, đây là loại giáo trình đa dạng nhất tại Việt
Nam hiện nay. Các giáo trình này được các soạn
giả chia theo trình độ A, B, C và nâng cao hay còn
gọi là giáo trình tiếng Việt trình độ sơ cấp, trung
cấp và cao cấp dành cho sinh viên nước ngoài. Về
loại giáo trình này, chúng tôi có thể kể đến hàng
trăm giáo trình khác nhau của các soạn giả cả
trong và ngoài nước. Với số lượng giáo trình lớn
như vậy, các cơ sở đào tạo có thể dễ dàng lựa
chọn giáo trình phù hợp với đối tượng sinh viên
của mình. Tuy nhiên, sau khi lựa chọn giáo trình
và sử dụng một thời gian, nếu cảm thấy không phù
hợp hoặc phát hiện ra một số lỗi của giáo trình, cơ
sở đào tạo sẽ đưa ngay ra giải pháp là chuyển sang
dùng giáo trình khác để thay thế hoặc là tự copy ý
tưởng của một số giáo trình và “chế biến” thành
giáo trình của riêng mình để tiện sử dụng. Từ thực
trạng đó, chúng ta có thể thấy loại giáo trình thực
hành tiếng Việt tuy có đa dạng nhưng cũng chưa
phải là đã đáp ứng được hoàn toàn nhu cầu giảng
dạy và học tập tiếng Việt cơ bản hiện nay.
Thứ hai là loại giáo trình tiếng Việt chuyên
ngành và một số tài liệu lưu hành nội bộ khác do
chính các thầy cô giáo tham gia giảng dạy tại các
cơ sở đào tạo tự biên soạn để giảng dạy do những
giáo trình thuộc loại này hiện có không đáp ứng
được nhu cầu giảng dạy và học tập.
Thông qua việc thống kê các giáo trình giảng
dạy tiếng Việt hiện nay thuộc hai loại trên, chúng
tôi tạm chia số lượng sách giảng dạy tiếng Việt
hiện có theo cách thức trình bày gồm 06 nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Không phân chia trình độ mà
chỉ đặt tên sách
Những cuốn giáo trình được trình bày theo
cách thức này bao gồm: Tiếng Việt cho người
nước ngoài, Tiếng Việt thực hành (Dùng cho
người nước ngoài), Thực hành tiếng Việt (Dùng
cho người nước ngoài), Chương trình đào tạo
tiếng Việt cho người nước ngoài hệ ngắn hạn [Bùi
Phụng (chủ biên), Tiếng Việt cho người nước
ngoài, Nxb Giáo dục, 1992; Đinh Thanh Huệ (chủ
biên), Tiếng Việt thực hành (Dùng cho người
nước ngoài), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997;
Khoa Việt Nam học và tiếng Việt, Trường đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN:
Chương trình đào tạo tiếng Việt cho người nước
ngoài hệ ngắn hạn; Mai Ngọc Chừ, Tiếng Việt
cho người nước ngoài, Nxb Giáo dục, 1995;
Nguyễn Anh Quế, Tiếng Việt cho người nước
ngoài, Nxb Văn hóa thông tin; Nguyễn Việt
Hương, Thực hành tiếng Việt (dùng cho người
nước ngoài), Nxb Giáo dục, 1996].
Đặc điểm về trình độ của các sách dạy tiếng
Việt loại này là đều đi từ trình độ của người bắt
đầu học tiếng Việt, nhưng nếu xếp theo thang
trình độ thì mức trình độ tiếng Việt trong mỗi
cuốn sách trên cũng khác nhau (dung lượng từ
vựng cao thấp khác nhau, dung lượng ngữ pháp
cao thấp khác nhau). Nói chung là tên gọi của các
cuốn sách trên đều theo cùng một kiểu là “Tiếng
Việt cho người nước ngoài” hoặc là “Thực hành
tiếng Việt (Dùng cho người nước ngoài)” và trình
độ từ đầu sách đều đi từ trình độ cho người bắt
đầu học tiếng Việt nhưng mức trình độ tiếng Việt
trong các cuốn sách không có sự thống nhất, bởi
mỗi tác giả đều viết theo tiêu chí riêng của mình,
mỗi cuốn sách dạy tiếng Việt là một công trình
độc lập, không liên quan đến nhau và cũng không
theo một chuẩn chung nào.
Nhóm thứ hai: Không phân chia theo trình độ
mà chỉ phân bộ sách theo tập
Đây là cách phân chia của nhóm tác giả viết
sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài do
Nguyễn Văn Huệ chủ biên [Nguyễn Văn Huệ (chủ
biên), Giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài,
Nxb Giáo dục, 2003 (tập 1, tập 2, tập 3, tập 4, tập
5, tập 6)].
Nhóm thứ ba: Phân chia theo 2 trình độ
Những giáo trình thuộc nhóm này bao gồm
Tiếng Việt trình độ cơ sở và Tiếng Việt trình độ
nâng cao [Nguyễn Văn Phúc (chủ biên), Tiếng
Việt cho người nước ngoài (chương trình cơ sở -
elementary level), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004; Vũ Văn Thi, Tiếng Việt cơ sở, Nxb Khoa
học xã hội, 1996; Trịnh Đức Hiển (chủ biên),
Tiếng Việt cho người nước ngoài (trình độ nâng
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
510
cao), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Vũ Thị
Thanh Hương (chủ biên), Tiếng Việt nâng cao
(Dành cho người nước ngoài), Nxb Khoa học xã
hội, 2004; Nguyễn Thiện Nam, Tiếng Việt nâng
cao (cho người nước ngoài – quyển I), Nxb Giáo
dục, 1998].
Trong phần lời nói đầu của các sách Tiếng Việt
trình độ nâng cao, các tác giả đều nói rằng cuốn
sách dạy tiếng Việt trình độ nâng cao là cuốn sách
tiếp theo của cuốn sách tiếng Việt trình độ cơ sở,
sau khi người học học xong chương trình tiếng
Việt cơ sở thì sẽ có thể tiếp tục học cuốn sách
tiếng Việt trình độ nâng cao. Nhưng cách phân
chia trình độ này cũng chỉ mang tính tương đối,
bởi các tác giả viết các sách dạy tiếng Việt trình
độ cơ sở và các sách dạy tiếng Việt trình độ nâng
cao đều là các nhóm tác giả khác nhau và tiêu chí
cá nhân của các tác giả đều thể hiện rõ trong các
cuốn sách. Mức trình độ tiếng Việt của các cuốn
sách tiếng Việt trình độ cơ sở đều khác nhau và
mức trình độ tiếng Việt của các cuốn sách tiếng
Việt trình độ nâng cao cũng khác nhau. Và cách
phân chia này cũng chỉ là cách phân chia do các
tác giả tự đặt ra một cách tương đối chứ cũng
không theo một chuẩn chung nào.
Nhóm thứ tư: Phân chia theo 3 trình độ
Những giáo trình thuộc nhóm này bao gồm:
Tiếng Việt trình độ A (tập 1), Nxb Thế giới, 2003;
Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Tiếng Việt trình độ
A (tập 2), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2000; Đoàn
Thiện Thuật (chủ biên), Thực hành tiếng Việt
(trình độ B), Nxb Thế giới, 2001; Đoàn Thiện
Thuật (chủ biên), Thực hành tiếng Việt (trình độ
C), Nxb Thế giới, 2001].
Đây là cách phân chia trình độ của nhóm tác
giả viết sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
do G.S Đoàn Thiện Thuật chủ biên. Trong phần
Lời nói đầu của cuốn sách Tiếng Việt trình độ A
(tập 1) và Tiếng Việt trình độ A (tập 2), tác giả
cũng nói rõ rằng hai cuốn Tiếng Việt trình độ A
này không phải là hai cuốn sách tiếp theo trong bộ
sách của hai cuốn Thực hành tiếng Việt (trình độ
B), và Thực hành tiếng Việt (trình độ C) đã viết
trước đó mà nằm trong hệ thống mới, nhưng cách
phân chia trình độ theo kiểu Tiếng Việt trình độ A,
Tiếng Việt trình độ B, Tiếng Việt trình độ C là
cách phân chia mà nhóm tác giả này đưa ra đầu
tiên trong giới Việt ngữ. Tuy vậy, cách phân chia
này cũng chỉ mang tính chất tương đối, có ý nghĩa
là các trình độ nằm trong một hệ thống từ thấp đến
cao nhưng cũng không theo một chuẩn chung nào.
Nhóm thứ năm: Phân chia theo 3 trình độ
tương đương với thuật ngữ tiếng Anh tương ứng
là Beginner, Intermediate, Contemporary reading,
[Nguyễn Bích Thuận, Spoken Vietnamese for
beginners, Northern Illinois University – Center
for Southeast Asian Studies, 1997; Nguyễn Bích
Thuận, Contemporary Vietnamese (An
intermediate text), Northern Illinois University –
Center for Southeast Asian Studies, 1997; Nguyễn
Bích Thuận, Contemporary Vietnamese readings,
Northern Illinois University – Center for
Southeast Asian Studies, 1997].
Đây là cách phân chia trình độ của tác giả
Nguyễn Bích Thuận cho bộ sách dạy tiếng Việt
cho người n