TÓM TẮT
Trong giai đoạn hiện nay, Giáo dục Việt Nam cần phải đổi mới mạnh mẽ “c n
bản, toàn diện” để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng đất nước. Do
vậy, các trường ại học Sư phạm nói chung, ngành Sư phạm Giáo dục chính trị nói riêng
cũng phải điều chỉnh các yếu tố liên quan để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực. Bên cạnh các yếu tố như chất lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chương trình
đào tạo là yếu tố mang tính tiên quyết đảm bảo chất lượng đào tạo của các ngành. Hiện
nay, chương trình đào tạo của ngành Giáo dục chính trị đã có nhiều thay đổi, song, vẫn
còn nhiều vấn đề bất hợp lý, trong đó có chương trình Thực tập sư phạm. Trên cơ sở
tham khảo chương trình đào tạo của một số trường ại học Sư phạm, chúng tôi xin đánh
giá khái quát về chương trình Thực tập sư phạm và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động Thực tập sư phạm của ngành Sư phạm Giáo dục chính trị.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương trình thực tập Sư phạm ngành Giáo dục chính trị - Một số bất chấp chủ yếu và biện pháp khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYỄN THỊ H ƠN 1
TÓM TẮT
Trong giai đoạn hiện nay, Giáo dục Việt Nam cần phải đổi mới mạnh mẽ “căn
bản, toàn diện” để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng đất nước. Do
vậy, các trường ại học Sư phạm nói chung, ngành Sư phạm Giáo dục chính trị nói riêng
cũng phải điều chỉnh các yếu tố liên quan để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực. Bên cạnh các yếu tố như chất lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chương trình
đào tạo là yếu tố mang tính tiên quyết đảm bảo chất lượng đào tạo của các ngành. Hiện
nay, chương trình đào tạo của ngành Giáo dục chính trị đã có nhiều thay đổi, song, vẫn
còn nhiều vấn đề bất hợp lý, trong đó có chương trình Thực tập sư phạm. Trên cơ sở
tham khảo chương trình đào tạo của một số trường ại học Sư phạm, chúng tôi xin đánh
giá khái quát về chương trình Thực tập sư phạm và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động Thực tập sư phạm của ngành Sư phạm Giáo dục chính trị.
Từ khóa: ngành Giáo dục Chính trị, thực tập sư p ạm, c ư ng tr n đ o tạo, điều
chỉnh, chất lượng
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực tập sư p ạm được xem l giai đoạn cuối cùng của một quy tr n đ o tạo sinh
viên ng n sư p ạm, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành những niềm
tin, kỹ năng, iến thức cũng n ư lòng yêu ng ề của mỗi sin viên. Do đó, c ư ng tr n
thực tập sư p ạm là một nhân tố rất quan trọng trong c ư ng tr n đ o tạo của các ngành
nói chung và của ng n sư p ạm Giáo dục chính trị nói riêng ở các trường đại học sư
phạm trong cả nước hiện nay. Trước đòi ỏi đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt
Nam, vấn đề nâng cao chất lượng c ư ng tr n t ực tập sư p ạm ng n sư p ạm Giáo
dục chính trị là việc làm hết sức cần thiết để đảm bảo chất lượng chất lượng đ o tạo các
1
T S, Trường Đại ọc Sư p ạm – Đại ọc Đ N ng
thế hệ giáo viên chuyên ngành nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội về nguồn
nhân lực hiện nay.
2. NỘI DUNG
2.1. Vai trò của chương trình thực tập sư phạm
Theo từ điển Việt Nam: Thực tập có ng ĩa l tập làm trong thực tế để vận dụng và
củng cố kiến thức lý thuyết, trau dồi thêm về nghiệp vụ.
Thực tập sư p ạm là công tác rất quan trọng trong c ư ng tr n đ o tạo ng n sư
phạm vì chính thực tập sư p ạm sẽ củng cố, nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng –
nghiệp vụ sư p ạm. Sin viên sư p ạm được làm việc trực tiếp với môi trường thực tiễn
liên quan đến nghề nghiệp (p ư ng p áp, n t ức tổ chức dạy học, giáo dục chính khóa
và ngoại khóa, công tác chủ nhiệm).
Hoạt động thực tập tạo điều kiện để sinh viên chủ động, sáng tạo trong việc vận
dụng những lý luận dạy học được trang bị ở trường sư p ạm vào thực tiễn giảng dạy ở
trường phổ thông. Đây c n l c sở để hình thành phẩm chất, tình cảm v năng lực sư
phạm của người giáo viên. Ngược lại, đó c n l oạt động giúp bản t ân các c sở đ o
tạo giáo viên nhìn nhận, đán giá lại c ư ng tr n đ o tạo và việc thực hiện công tác đ o
tạo của m n , trên c sở đó có n ững điều chỉnh cần thiết.
C ư ng tr n t ực tập sư p ạm là một c ư ng tr n đặc t ù trong đ o tạo giáo
viên. Với tư các l một c ư ng tr n đ o tạo, c ư ng tr n t ực tập sư p ạm của các
trường đ o tạo giáo viên phải thỏa mãn yêu cầu, mục đ c :
(1) Giúp sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại óa đất nước;
(2) Giúp sinh viên nắm vững những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người
giáo viên, trên c sở đó p ấn đấu để làm tốt vai trò người giáo viên;
(3) Tạo điều kiện cho sinh viên chủ động, sáng tạo trong việc vận dụng kiến thức
đã ọc và rèn luyện các kỹ năng giáo dục và dạy học, thực hiện độc lập các
nhiệm vụ và các hoạt động của người giáo viên trong thực tế trường thực tập,
từ đó n t n năng lực sư p ạm;
(4) Kết quả thực tập sư p ạm là một trong những điều kiện để sin viên được
công nhận tốt nghiệp.
Với những mục đ c quan trọng n ư trên, việc tổ chức thực hiện tốt c ư ng tr n
thực tập sư p ạm là một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng đ o tạo của
các trường Đại học.
2.2. Những bất cập chủ yếu trong chương trình thực tập sư phạm ngành Giáo
dục Chính trị hiện nay
Trên c sở tham khảo c ư ng tr n đ o tạo của một số trường Đại học Sư p ạm
trong nước n ư trường Đại học Sư p ạm Hà Nội, trường Đại học Sư p ạm Huế (chúng
tôi tham khảo chương trình thuộc Dự án Phát triển giáo viên THPT và TCCN), trường
Đại học Sư p ạm Đ N ng, Trường Đại học Cần T , Trường Đại học Sài Gòn, chúng
tôi xin đưa ra một số nhận xét n ư sau:
2.2.1. Chương trình đào tạo chưa thực sự có sự tương thích với mục tiêu đào tạo
T eo quy định của Bộ Giáo dục – Đ o tạo, c ư ng tr n đ o tạo của trường đại
học được xây dựng trên c sở c ư ng tr n ung giáo dục đại học do Bộ Giáo dục - Đ o
tạo ban n . C ư ng tr n đ o tạo được xây dựng với sự tham gia của các giảng viên,
cán bộ quản lý, đại diện của các tổ chức, hội nghề nghiệp và các nhà tuyển dụng lao động
t eo quy địn . C ư ng tr n đ o tạo có mục tiêu rõ ràng, cụ thể, cấu trúc hợp lý, được
thiết kế một cách hệ thống, đáp ứng yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng của đ o tạo
tr n độ đại học, đáp ứng linh hoạt nhu cầu nhân lực của thị trường lao động v được
định kỳ bổ sung, điều chỉnh dựa trên c sở tham khảo các c ư ng tr n tiên tiến quốc tế,
các ý kiến phản hồi từ các nhà tuyển dụng lao động, người tốt nghiệp, các tổ chức giáo
dục và các tổ chức khác nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực phát triển kinh tế - xã hội
của địa p ư ng oặc cả nước.
C ư ng tr n đ o tạo ng n sư p ạm Giáo dục chính trị thuộc các trường (nêu
trên) cũng được xây dựng dựa trên việc đáp ứng quy định của Bộ Giáo dục – Đ o tạo,
phù hợp với đặc điểm của các trường và nhu cầu nguồn nhân lực của địa p ư ng oặc cả
nước. Trước hết, trong số các trường chúng tôi tham khảo chỉ có duy nhất trường Đại học
Cần T đặt tên l ng n sư p ạm Giáo dục công dân, các trường còn lại đều vẫn sử
dụng tên gọi l ng n sư p ạm Giáo dục chính trị. Đồng thời, về c bản, mục tiêu đ o tạo
của ngành này tại các trường đều có điểm chung là đào tạo giáo viên dạy tốt môn Giáo
dục công dân ở các trường Trung học phổ thông, có thể trở thành giảng viên các môn
khoa học Mác – Lênin, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam v Tư tưởng Hồ Chí Minh ở
các trường đại học, cao đẳng, các trường chính trị ở địa phư ng, giáo viên c n trị ở các
trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, cán bộ trong các lĩn vực chính trị - xã hội.
Từ việc đặt tên với mục tiêu đ o tạo của ngành, chúng tôi cho rằng các oa đ o tạo
ng n sư p ạm Giáo dục chính trị c ưa tạo sự tư ng đồng thực sự giữa tên ngành với
mục tiêu đ o tạo của ng n . Điều đó l do các oa n y muốn mở rộng n c ội nghề
nghiệp c o sin viên sau i ra trường, n ưng cũng có t ể nhận định rằng, n ết các
khoa này muốn tạo sự “ ông rõ r ng” để nhằm mục đ c có đủ chỉ tiêu tuyển sinh hàng
năm của mình.
Từ thực tế trên dẫn đến c ư ng tr n đ o tạo lại tiếp tục bị “vên ” so với mục tiêu
đ o tạo của ngành. Nhận địn n y được chứng min n ư sau:
Thứ nhất, nếu mục tiêu đ o tạo của ng n sư p ạm Giáo dục chính trị l đ o tạo
giáo viên dạy môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ t ông t c ư ng tr n
đ o tạo của ngành này ở các trường c ưa đảm bảo khối lượng kiến thức để có thể dạy
môn Giáo dục công dân của ba khối lớp ở trung học phổ thông (đ c biệt là chương trình
môn Giáo dục công dân lớp 12 với nội dung kiến thức chủ yếu về pháp luật). Thực tế thì
ngoài học phần Pháp luật học hay Pháp luật đại cư ng n ư các trường còn lại, chúng tôi
đã t m t ấy chỉ có c ư ng tr n đ o tạo của trường Đại học Sư p ạm Huế v Đại học Cần
T đưa t êm v o giảng dạy các học phần Luật Hôn n ân v gia đ n , Luật Hiến pháp,
Luật Dân sự, Luật Hình sự. để bổ trợ phần kiến thức liên quan đến pháp luật sử dụng
dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 cho giáo viên phổ thông.
Thứ hai, nếu mục tiêu đ o tạo của ng n l đ o tạo giảng viên dạy các môn khoa
học Mác – Lênin, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam v Tư tưởng Hồ
Chí Minh ở các trường đại học, cao đẳng, các trường chính trị ở địa p ư ng, giáo viên
chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề t c ư ng tr n đ o tạo này
đảm bảo được khối lượng kiến thức cần thiết để đáp ứng mục tiêu đặt ra. Nguyên nhân là
do c ư ng tr n đ o tạo n y được các trường xây dựng trên c sở mục tiêu kiến thức cho
sinh viên là trang bị cho người học hệ thống những kiến thức c bản, hiện đại, rộng và sâu
về các môn khoa học Mác – Lênin, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí
Minh; những kiến thức c bản, cập nhật và thiết thực về khoa học giáo dục, nghiệp vụ sư
phạm; những vấn đề quan trọng về kinh tế, chính trị, văn óa, xã hội trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam. Tuy n iên, c ư ng tr n n y lại c ưa có các ọc phần p ư ng
p áp để giảng dạy các môn lý luận chính trị ở bậc Đại học, Cao đẳng, Trung cấp. Qua
tham khảo, chúng tôi chỉ thấy ở trường Đại học Sư p ạm Hà Nội (có các học phần về
phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch
s ảng Cộng sản Việt Nam) v trường Sư p ạm Đ N ng (có học phần Lý luận dạy học
Giáo dục chính trị và Giáo dục công dân và phương pháp dạy học Giáo dục chính trị),
n ưng c ưa t ấy trường n o đề cập đến vấn đề lý luận chung cho giáo dục Đại học.
Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy c ư ng tr n đ o tạo hiện nay ở các trường có
đ o tạo ng n sư p ạm Giáo dục chính trị c ưa t ực sự phù hợp với mục tiêu đ o tạo
của ngành.
2.2.2. Chương trình và thời lượng dành cho bộ môn phương pháp của chuyên
ngành chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đòi hỏi của ngành đào tạo đề ra.
Thông qua việc khảo sát c ư ng tr n đ o tạo của các trường đại học nói trên,
c úng ta đã t u được kết quả n ư sau:
Bảng th ng kê tổng s h c ph n NVSP và NVSP chuyên ngành củ các t ư ng
STT ên t ư ng
Tổng s
tín chỉ
phải
t ch ũ
Tổng s
h c ph n
nghi p v
ư phạm
Tổng s
h c ph n
nghi p v
ư phạm
chuyên ngành
1 Trường Đại học Sư p ạm Hà Nội 130 27 19
2 Trường Đại học Sư p ạm Huế 134 26 13
3 Trường Đại học Sư p ạm Đ N ng 135 26 14
4 Trường Đại học Sài Gòn 134 23 10
5 Trường Đại học Cần T 140 23 12
(Nguồn: Tác giả thống kê từ việc tham khảo CT T của các trường đại học kể trên)
Khi thống kê các học phần nghiệp vụ sư p ạm chuyên ngành, chúng tôi không tính
các học phần kiến tập sư p ạm và thực tập sư p ạm. Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy
c ư ng tr n v t ời lượng dành cho bộ môn p ư ng p áp của chuyên ngành còn quá ít
so với mục đ c , yêu cầu v đòi ỏi đề ra của ng n sư p ạm, trong i đó, các trường
xây dựng c ư ng tr n d n c o các ọc phần kiến thức chuyên ngành chính lại nhiều
n (Trường Đại học Sài Gòn (50 tín chỉ bắt buộc); trường Đại học Cần T (44 t n c ỉ
bắt buộc) trường Đại học sư p ạm Huế (52 tín chỉ bắt buộc)). Điều này cho thấy các
trường c ưa t ực sự quan tâm nhiều đến phần kiến thức về nghiệp vụ sư p ạm. Mặt khác,
đặc thù của đ o tạo sư p ạm là dạy nghề, truyền nghề nên các kỹ năng n y cần được rèn
luyện, trau dồi t ường xuyên. Do đó, ọc phần rèn luyện nghiệp vụ sư p ạm t ường
xuyên là học phần hết sức quan trọng, n ưng c ỉ có trường sư p ạm Hà Nội v trường sư
phạm Huế có xây dựng học phần rèn luyện nghiệp vụ sư p ạm t ường xuyên trong
c ư ng tr n t ực tập sư p ạm, các trường còn lại c ưa t ực sự quan tâm đến hoạt động
n y. Điều n y cũng l một ó ăn c o các trường, không phải các trường không biết
tầm quan trọng của hoạt động n y n ưng các trường ý thức được việc ó ăn trong
việc thực hiện học phần n y. Nguyên n ân l do các trường c ưa n ận sự đồng thuận từ
Sở Giáo dục v các trường phổ thông của địa p ư ng trong việc phối hợp tạo điều kiện
c o sin viên đến tìm hiểu, học tập. Mặt khác, việc xây dựng trường thực hành sư p ạm
của các trường còn phụ thuộc nhiều v o quy định của Bộ Giáo dục – Đ o tạo.
Từ thực tế các học phần nghiệp vụ sư p ạm chiếm thời lượng quá ít trong
c ư ng tr n đ o tạo, đồng thời hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư p ạm t ường xuyên
vẫn c ưa t ực hiện hiệu quả ở các trường nên hạn chế lớn nhất của phần lớn sinh viên
khi về các trường phổ thông là thiếu kinh nghiệm trong xử lý tình huống sư p ạm và kỹ
năng sư p ạm.
2.2.3. Bố trí kế hoạch đào tạo chương trình thực tập sư phạm chưa thực sự
phù hợp
Vì quan niệm dạy học là một nghề, đ o tạo sư p ạm l đ o tạo nghề nên thực tập
sư p ạm chính là việc cho ra sản phẩm cuối cùng và quyết định sự thành bại của một
quy tr n đ o tạo ấy. Đồng thời, nghề dạy học là một nghề rất đặc biệt và muốn có sản
phẩm tốt t nên c o người học nghề làm quen với công việc của nghề ngay những năm
t áng đầu tiên tiếp xúc. Tuy nhiên, khi tham khảo c ư ng tr n đ o tạo các trường,
chúng tôi nhận thấy kế hoạc đ o tạo c ư ng tr n t ực tập sư p ạm hầu hết đều bố trí
học phần lý luận v p ư ng p áp dạy học bộ môn v o năm t ứ ba. Theo chúng tôi nhận
thấy thì thời điểm bố trí thực hiện các học phần n y c ưa t ực sự hợp lý do thời điểm
năm t ứ ai đại học, bước đầu sinh viên phải được về làm quen với ông trường
phổ thông, họ sẽ từng bước hiểu về vị trí, vai trò của người giáo viên trong công tác
giảng dạy cũng n ư công tác c ủ nhiệm. Từ những quan sát ban đầu, sinh viên sẽ ý thức
xác định cho mình những yêu cầu, đặc điểm cần phải rèn luyện để trở thành một người
giáo viên thực thụ. Do đó, muốn cho việc bước đầu làm quen với môi trường ở phổ
thông thực sự hiệu quả thì sinh viên cần phải được trang bị những lý luận c bản về dạy
học bộ môn từ năm t ứ hai.
Mặt khác, thời điểm học lý thuyết (cả về môn chuyên ngành lẫn môn nghiệp vụ) và
thời điểm thực tập không trùng nhau, tức là theo kế hoạc đ o tạo của các trường, thời
gian thực hiện học phần kiến tập và thực tập sư p ạm đều l năm t ứ tư. Điều này khiến
sinh viên lúng túng trong việc kết hợp giữa lý thuyết và thực hành tại các đợt kiến tập và
thực tập sư p ạm.
Bên cạn đó, t eo quy định của Bộ Giáo dục – Đ o tạo, việc ướng dẫn sinh viên
thực tập được giao phó hoàn toàn cho giáo viên phổ t ông nên công tác ướng dẫn và
đán giá giáo sin dẫn đến những vấn đề sau:
Một là, giáo sinh khó vận dụng p ư ng p áp mới trong thời gian thực tập do giữa
kiến thức n lâm được học trong trường đại học và thực tế phổ thông có khoảng cách; ở
trường đại học dạy những gì cho là cần thiết để trở thành giáo viên - khác với việc dạy và
rèn những kỹ năng m người giáo viên cần có khi tác nghiệp;
Hai là, ngo i đợt thực tập hầu n ư ông có liên lạc giữa các khoa và giáo viên
phổ t ông, c o nên ông có điều kiện t ường xuyên cập nhật kiến thức của người giáo
viên phổ t ông để việc thực tập được phối hợp nhịp nhàng;
Ba là, việc đán giá t ực tập sư p ạm của giáo sinh còn gặp nhiều điều bất cập,
mặc dù có phiếu đán giá á c i tiết: sự chênh lệch về đán giá từ trường này sang
trường khác, từ giáo viên ướng dẫn n y sang giáo viên ác; điểm thực tập t ường không
phản án được thực chất hoạt động thực tập của giáo sinh; mục tiêu thực tập sư p ạm
cũng c ưa t ật rõ ràng nên ý kiến rất khác nhau về thời gian thực tập ("thiếu", "đủ").
Nhìn chung, kế hoạch thực hiện c ư ng tr n t ực tập sư p ạm còn nhiều bất cập,
c ưa tạo thuận lợi cho sinh viên trong việc kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để rèn luyện
năng lực sư p ạm, bản lĩn ng ề nghiệp cho nghề tư ng lai của mình.
2.3. Đề xuất một số biện pháp cơ bản để nâng cao chất lượng chương trình
thực tập sư phạm ngành sư phạm Giáo dục Chính trị
2.3.1. Cần rà soát kỹ và điều chỉnh chương trình đào tạo để đáp ứng mục tiêu, yêu
cầu đòi hỏi của ngành sư phạm Giáo dục chính trị
Nếu các trường đ o tạo giáo viên vẫn tiếp tục chấp nhận sự c ưa tư ng t c giữa
c ư ng tr n đ o tạo với mục tiêu đ o tạo (chúng tôi đã nhận định ở trên) thì các trường
này cần phân phối cân đối c ư ng tr n v t ời lượng giữa khối kiến thức chuyên ngành
chính với khối kiến thức khoa học sư p ạm chuyên ngành để trang bị kỹ năng v p ư ng
pháp dạy học c bản cho các cử nhân sẽ đảm nhiệm vai trò là giáo viên dạy Giáo dục
công dân tại trường phổ thông. Đặc biệt là cần xây dựng bổ sung thêm các học phần
thuộc bộ môn p ư ng p áp c uyên ng n v c ú ý mối liên quan giữa c ư ng tr n ,
p ư ng p áp đ o tạo ở trường sư p ạm và thực tế khi sinh viên ra dạy ở cấp phổ thông.
Mặt ác, các trường cũng cần chú ý bổ trợ cho sinh viên kỹ năng tự học, p ư ng
pháp nghiên cứu khoa học độc lập để có khả năng ng iên cứu chuyên sâu các môn khoa
học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng khả năng công tác với vị trí là
giảng viên giảng dạy các môn kể trên ở các trường đại học, cao đẳng, các trường chính trị
ở địa p ư ng và cả nước.
2.3.2. Cần bổ sung học phần Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên
Kiến thức nghiệp vụ sư p ạm được trang bị thông qua các bộ môn khoa học giáo
dục, khoa học sư p ạm, kiến tập và thực tập sư p ạm. Tuy n iên, đặc thù của đ o tạo sư
phạm là dạy nghề, truyền nghề nên các kỹ năng n y cần được rèn luyện nhiều n,
t ường xuyên n.
Từ thực tế việc rèn luyện năng lực và kỹ năng ng ề nghiệp là việc cần thiết cho
sin viên sư p ạm nói chung và sinh viên ngành Giáo dục chính trị nói riêng. Chúng tôi
đề nghị các trường sư p ạm bổ sung học phần Rèn luyện nghiệp vụ sư p ạm t ường
xuyên với một thời lượng tư ng xứng để sin viên có điều kiện học nghề (nếu trường nào
đã có t tiếp tục nâng cao hiệu quả của học phần này). Nội dung rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm t ường xuyên cũng cần được cụ thể hóa ở từng học kỳ, từng năm, được bố trí từ
đ n giản đến phức tạp, từ những kỹ năng t ông t ường n ư diễn đạt, viết bảng, trao đổi,
tranh luận, xử lý tình huống sư p ạm, sử dụng p ư ng tiện dạy học c o đến các kỹ năng
có tính tổng hợp và sáng tạo n ư t iết kế bài giảng, tổ chức dạy học bộ môn C úng tôi
thiết ng ĩ nếu Rèn luyện nghiệp vụ sư p ạm được thực hiện nghiêm túc và khoa học thì
học phần này sẽ đem lại hiệu quả thiết thực.
2.3.3. Cần điều chỉnh kế hoạch đào tạo cho thật sự hợp lý tạo điều kiện thuận lợi
cho sinh viên trong việc kết hợp lý thuyết và thực hành.
Thứ nhất, cần đưa bộ môn p ư ng p áp giảng dạy bộ môn vào ngày học kỳ một
của năm t ứ hai. Kinh nghiệm từ việc giảng dạy của một số giảng viên, cứ bắt đầu năm
thứ hai khi sinh viên học bộ môn Lý luận v p ư ng p áp dạy học, giảng viên ướng dẫn
các sinh viên về tham gia với các trường phổ thông tại địa p ư ng để điều tra, nghiên
cứu, khảo sát với đối tượng là các thầy cô và các em học sinh về các p ư ng p áp dạy
học (truyền thống, tích cực, hiện đại) được áp dụng ở trường phổ thông hiện nay. Đây l
thời điểm hợp lý để sinh viên từng bước hiểu về vị trí, vai trò của người giáo viên trong
công tác giảng dạy cũng n ư công tác c ủ nhiệm. Từ những quan sát ban đầu, sinh viên
sẽ ý thức xác định cho mình những yêu cầu, đặc điểm cần phải rèn luyện để trở thành
một người giáo viên thực thụ.
Thứ hai, cần điều chỉnh kế hoạch thực hiện học phần Kiến tập sư p ạm từ học kỳ 1
năm t ứ tư sang ọc kỳ 1 năm t ứ ba. Đây l giai đoạn bước đầu tập làm nghề của sinh
viên sau khi học lý luận v quan sát ban đầu ở năm t ứ hai. Sinh viên tìm hiểu cách thức
tiến hành hoạt động dạy học, cách thức tổ chức các nhiệm vụ người giáo viên chủ nhiệm,
bước đầu tập soạn giáo án v t ường xuyên tham gia dự giờ, giúp giáo viên trong các giờ
bài tập, có thể dạy thử một số tiết.
Sau việc tìm hiểu bước đầu hiệu quả, sinh viên sẽ đảm bảo chất lượng đợt kiến tập
năm t ứ ba. Sau cùng, sin viên đã có một quá tr n ai năm rèn luyện về năng lực sư
phạm trước đó t đến đợt thực tập sư p ạm, chúng tôi tin chắc rằng, các sản phẩm của
c úng ta đ o tạo sẽ là những giáo viên có tr n độ chuyên môn vững v ng, có năng lực sư
phạm, có bản lĩn ng ề nghiệp, sự say mê công việc đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
phổ thông.
2.3.4. Một số đề xuất khác
Một là, nếu thuận lợi, các trường nên xây dựng trường Thực n sư p ạm để sinh
viên có điều kiện thâm nhập thực tiễn phổ thông sớm n, t ường xuyên n.
Hai là, tăng cường mối liên kết giữa trường đ o tạo giáo viên với n trường phổ thông.
Ba là, cải thiện nội