Hơn 15 năm đổi mới không phải là một thời gian quá dài, song Việt Nam
đã đạt được những thành tựu phát triển đáng kể. Nền kinh tế sau khi chuyển từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã trở nên linh hoạt hơn,
nhanh chóng thích nghi với những điều kiện mới, với những đòi hỏi phát triển
của đất nước. Minh chứng cho sự đổi mới này là việc duy trì tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm luôn ở mức 7-8%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt,
mức độ hội nhập quốc tế được tăng cường, môi trường đầu tư trong nước được
cải thiện không ngừng.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Để bắt
kịp trình độ của các nước tiên tiến chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa, tập trung
mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư phát triển các ngành trọng
điểm, mũi nhọn. Với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp, Đảng và Nhà nước đã xác định Dệt - May là một trong những
ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành đã khẳng
định được vai trò quan trọng của mình bằng thành tựu luôn luôn đứng thứ hai về
kim ngạch xuất khẩu qua các năm.
87 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1940 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
Luận văn
Định hướng chiến lược đầu
tư phát triển ngành Dệt -
May Việt Nam đến năm
2010
- 2 -
LỜI MỞ ĐẦU
Hơn 15 năm đổi mới không phải là một thời gian quá dài, song Việt Nam
đã đạt được những thành tựu phát triển đáng kể. Nền kinh tế sau khi chuyển từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã trở nên linh hoạt hơn,
nhanh chóng thích nghi với những điều kiện mới, với những đòi hỏi phát triển
của đất nước. Minh chứng cho sự đổi mới này là việc duy trì tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm luôn ở mức 7-8%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt,
mức độ hội nhập quốc tế được tăng cường, môi trường đầu tư trong nước được
cải thiện không ngừng...
Tuy nhiên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Để bắt
kịp trình độ của các nước tiên tiến chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa, tập trung
mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư phát triển các ngành trọng
điểm, mũi nhọn. Với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp, Đảng và Nhà nước đã xác định Dệt - May là một trong những
ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành đã khẳng
định được vai trò quan trọng của mình bằng thành tựu luôn luôn đứng thứ hai về
kim ngạch xuất khẩu qua các năm.
Để xứng đáng với vị trí của mình, ngành Dệt - May Việt Nam đã có những
nỗ lực không ngừng trong thời gian qua. Tuy nhiên, để có được sự bứt phá cần
thiết nhằm "tăng tốc" phát triển, Ngành Dệt - May cần tiếp tục được đầu tư
mạnh mẽ bởi hiện trạng của Ngành không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đây là
lý do em chọn đề tài "Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt -
May Việt Nam đến năm 2010" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào
thực tiễn ngành Dệt - May Việt Nam, từ đó đề xuất ra các quan điểm, ph ương
pháp cho đầu tư phát triển ngành này. Các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, suy luận logic...
Kết cấu đề tài bao gồm những phần sau:
- Lời mở đầu.
- 3 -
- Chương I: ý nghĩa của việc định hướng chiến lược đầu tư phát triển
ngành Dệt - May.
- Chương II: Thực trạng đầu tư của ngành Dệt - May Việt Nam giai đoạn
1995 - 2002.
- Chương III: Phương hướng và giải pháp đầu tư cho phát triển ngành
Dệt - May Việt Nam đến năm 2010.
- Kết luận.
Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Ts. Lê
Huy Đức, giảng viên khoa Kế hoạch và phát triển - trường Đại học Kinh tế quốc
dân; cô Nguyễn Thị Luận, Phó Ban Kỹ thuật Đầu tư - Tổng công ty Dệt - May
Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn.
- 4 -
Chương I: Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN
LƯỢC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
I. ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
1. Khái niệm.
a) Khái niệm
Thuật ngữ “đầu tư” (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ
ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái ở
hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết
quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Tuy nhiên, một số hành động nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc
đơn vị thì là hành động đầu tư, nhưng nếu xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì
không phải tất cả các hành động này đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được
coi là đầu tư. Các hoạt động như gửi tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ
không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất, trí tuệ...) cho nền kinh tế. Các hành
động này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở hữu cổ
phần và hàng hoá từ người này sang người khác, và do đó chỉ làm cho số tiền thu
về của người đầu tư lớn hơn só tiền mà họ đã bỏ ra. Giá trị tăng thêm của người
đầu tư ở đây lại chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm (lãi suất phải trả), của cổ
đông đã bán lại cổ phần (lợi tức cổ phần), của người mua hàng (với giá cao). Tài
sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực
tiếp.
Các hoạt động bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên vật liệu, phát hành
chứng khoán để xây dựng thêm một phân xưởng mới, mua sắm trang thiết bị
máy móc cho sản xuất, tổ chức báo cáo khoa học đã làm tăng thêm các tài sản
vật chất ( xây thêm kho chứa nguyên vật liệu, thêm một phân xưởng mới...), tài
sản trí tuệ và nguồn nhân lực (bồi dưỡng giáo viên) cho nền kinh tế. Các hoạt
động này được gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế.
Như vậy, đầu tư phát triển là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra
các tài sản mới cho chủ thể đầu tư (cho nền kinh tế). Các hoạt động mua bán,
phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không
phải là đầu tư đối với nền kinh tế.
- 5 -
b) Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia
Từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt
các loại đầu tư sau đây:
Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định
trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài
chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc
tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, các
nhân đầu tư. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến
chơi nhằm thu lợi nhuận cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển nếu được nhà
nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do nhà nước quy định
để không gây ra các tệ nạn xã hội. Với sự hoạt động của hinh thức đầu tư tài
chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách
nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ
rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít. Đây là một nguồn cung
cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá
khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh
tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người
đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa
người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên,
đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do
đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách,
tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản
xuất xã hội nói chung.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động là hoạt động đầu tư trong đó
người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là
điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã
hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ
- 6 -
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và
tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu
tư phát triển.
2. Vai trò của đầu tư phát triển.
a) Đối với nền kinh tế
* Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm
khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với
tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự
tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo
sản lượng cần bằng tăng theo từ Q0 - Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư
tăng từ P0 - P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 - E1.
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
mới đi vào hoạt đông thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên
(đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 - Q2, và
do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1 - P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép
tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn
nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế
xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên
trong xã hội.
P
Q
P1
P0 P2
S
S’
D D’
E0
E1
E2
Q2 Q1Q0
- 7 -
*Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu
và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay
giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự
ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của
các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá
chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) dến một mức độ nào đó dẫn đến
tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống
của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm
hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của
các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm
lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng có tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược
lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các
nhà hoạt động chính sách cần nhận thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các
chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì
được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
*Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho
thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung
bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số
ICOR của mỗi nước.
Từ đó suy ra:
Mức tăng GDP =
Vốn đầu tư
ICOR
ICOR =
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP
- 8 -
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu lao động,
vón được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại
có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn,
thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử
dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào
nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong
nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ
cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngàng, các vùng lãnh thổ cũng như phụ
thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong
nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ
chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ
đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
*Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể
tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát
triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ
tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
*Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công
nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ
gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển
công nghệ nhanh và vững chắc.Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản
đẻ có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ
nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần
phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn
đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
- 9 -
b) Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải
xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên
nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn
liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất- kỹ thuật vừa tạo
ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh
doanh dịch vụ đang tồn tại. Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ
thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình
thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ
thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt
động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản
xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ
đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở hoạt động không vì mục đích lợi nhuận đang tồn tại, để
duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất - kỹ
thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và
chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
3. Các loại hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư được phân thành rất nhiều loại, tuỳ thuộc vào tiêu thức
đánh giá nó. Sau đây là một số tiêu thức phân loại chủ yếu:
a) Theo bản chất của các đối tượng đầu tư
Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài
sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc thiết bị...), cho các đối
tượng tài chính (đầu tư tài sản tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu, và các
chứng khoán khác...) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí
tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...). Trong các loại
đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng
tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi
nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối tượng vật chất, còn đầu tư
- 10 -
tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư
các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
b) Theo cơ cấu tái sản xuất
Có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều
sâu. Trong đó đầu tư chiều rộng vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu
tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn đủ lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp,
độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời
gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều
rộng.
c) Theo phân cấp quản lý
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 42/CP ngày
16 tháng 7 năm 1996 phân thành 3 nhóm A, B và C tuỳ theo tính chất và quy mô
của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C
do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ,
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
d) Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư
Có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
(kỹ thuật và xã hội)... Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau.
Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác.
e) Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư
Các hoạt động đầu tư được phân chia thành:
- Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
- Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ
sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các
doanh nghiệp.
- 11 -
Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện
cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành
thì kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại không có đầu tư
cơ bản thì đầu tư thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản thuộc loại
đầu tư dài hạn, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất
mở rộng các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi lâu. Đầu tư
vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá
trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất
kinh doanh có thể thu hồi nhanh sau khi đưa các kết quả đầu tư nói chung vào
hoạt động.
f) Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản
xuất xã hội
Có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành đầu tư
thương mại và đầu tư sản xuất.
Đầu tư thương mại là loại hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư
và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn, vốn vận động
nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ
dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao.
Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (5, 10, 20 năm hoặc lâu hơn), vốn
đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời igan thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính
kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất
định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoáng chính xác được (về nhu
cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ
thuật, thiên tai, sự ổn định chinh trị,...). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ,
phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt
động đầu tư trong tương lai xa; xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất
định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động đầu tư kết thúc,
khi các kết quả đầu tư đã hoạt động hết đời của mình.
Trong thực tế, người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương
mại. Tuy nhiên, trên giác độ xã hội, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của
cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng do hoạt động đầu tư đem
lại chỉ là sự phân phối lại htu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp
dân cư trong xã hội. Do đó, trên giác độ điều tiết vĩ mô, nhà nước thông qua các
- 12 -
cơ chế chính sách của mình làm sao đẻ hướng được các nhà đầu tư không chỉ
đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà cả vào lĩnh vực sản xuất, theo các định
hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong
cả nước.
g) Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
của các kết quả đầu tư
Dựa vào tiêu thức này có thể phân chia hoạt động đầ