Mặc dù trong nền kinh tế, Ngân hàng đang gặp phải sự cạnh tranh
gay gắt của các tổ chức như Quỹ bảo hiểm, Quỹ đầu tư. nhưng tín dụng
ngân hàng vẫn giữ một vai trò quan trọng không thể thay thế được, đặc biệt
là vai trò của tín dụng trung và dài hạn trong sự nghiệp xây dựng đất nước
hiện nay. Nâng cao chất lượng tín dụng không phải là một đề tài mới mẻ
mà nó luôn được sự quan tâm, chú trọng của hệ thống Ngân hàng thương
mại vì chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả
hoạt động và thể hiện tiềm lực kinh tế cũng như uy tín của một Ngân hàng
thương m ại trên thương trường.
Trong quá trình hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung và
dài hạn nói riêng, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
luôn tự đổi mới và hoàn thiện, không ngừng vươn lên. Tuy nhiên hoạt động
tín dụng trung và dài hạn của Sở vẫn còn nhiều hạn chế tồn tại. Khó khăn là
không bao giờ hết nhưng chúng ta tin rằng với sự nỗ lực của toàn thể chi
nhánh kết hợp với tư duy sáng suốt, việc chỉ đạo điều hành kiên quyết và
sáng tạo, Sở giao dịch sẽ vượt qua được trở ngại để hoàn thành mọi nhiệm
vụ đề ra.
80 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2089 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn tại Sở giao
dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam
2
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay các Ngân hàng thương mại đã trở thành một mắt xích quan
trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế thị trường,
trong đó hoạt động tín dụng ngân hàng trở thành một nhân tố quan trọng, là
đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để phát triển nền kinh tế. Đất nước ta đang trong
giai đoạn đầu tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường, thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên nhu cầu vốn đầu tư phát triển, mở rộng
và nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh là rất lớn. Theo nguyên lý
chung, nhu cầu vốn lớn và dài hạn phải được đáp ứng bởi thị trường vốn
nhưng trong điều kiện nước ta, khi thị trường này đang còn nhiều khó khăn
và yếu kém thì vai trò này chủ yếu thuộc về hệ thống ngân hàng thông qua
hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng nói chung và tín dụng trung
và dài hạn nói riêng là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân
hàng nhưng cũng luôn chứa đựng những rủi ro làm thất thoát vốn của Ngân
hàng thương mại nên chất lượng tín dụng là vấn đề đang được các ngân
hàng rất quan tâm.
Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam được thành
lập và hoạt động hơn mười năm, chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực đầu tư và
phát triển. Do đó nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn có ý nghĩa quan trọng
với đơn vị và với nhu cầu vốn trung và dài hạn của đất nước. Chính vì vậy,
nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam không những là đòi hỏi cấp thiết trong hoạt
động ngân hàng mà còn là đòi hỏi khách quan đối với sự phát triển lành
mạnh của nền kinh tế. Xuất phát từ thực tế trên, đi sâu vào nghiên cứu công
tác tín dụng trung và dài hạn của Sở giao dịch, em đã chọn đề tài: "Giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch
ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam".
3
CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại
1.1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, từ việc đổi tiền, giữ hộ tiền
đến việc thực hiện thanh toán hộ đã dần dần hình thành các Ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại ra đời, trở thành một cầu nối không thể
thiếu giữa những người muốn tiết kiệm và những người muốn đầu tư, trở
thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại. Theo
quan điểm của Mỹ, "Ngân hàng thương mại là một công ty chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính". Hay một cách thận trọng có thể xem tổ chức này trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: Ngân hàng thương mại là tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất -
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế.
Tại Việt Nam, sự chuyển dịch nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nướcnăm 1986 tất yếu dẫn dến sự
ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và tổ chức tín dụng. Để quản lý và
hướng dẫn hoạt động cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, bảo vệ lợi ích của cá nhân và các thành
phần kinh tế, theo Pháp lệnh số 38 ngày 25/5/1990: "Ngân hàng thương
mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là
nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó
4
để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu các phương tiện thanh toán". Và
mới đây Luật các tổ chức tín dụng có quy định "Ngân hàng là loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh có liên quan". Theo đó ngân hàng thương mại là doanh
nghiệp được thành lập để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng nhận tiền gửi để cấp tín dụng,
cung ứng các dịch vụ thanh toán vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Tóm lại, dù định nghĩa Ngân hàng thương mại như thế nào cũng đều
có chung một nội dung và tính chất hoạt động của ngân hàng là huy động
vốn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh
doanh khác của ngân hàng.
1.1.1.2.Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên ngân hàng
thương mại cũng cần vốn cho các hoạt động kinh doanh của mình. Các
Ngân hàng thương mại thường huy động bằng các phương thức khác nhau:
* Đầu tiên ngân hàng phải có vốn tự có của mình. Vốn tự có là vốn
thuộc sở hữu của Ngân hàng thương mại. Đây là điều kiện pháp lý bắt buộc
khi thành lập ngân hàng. Vốn tự có ban đầu của ngân hàng ít nhất phải
bằng vốn pháp định và trong quá trình hoạt động nguồn vốn này được bổ
sung bằng nhiều phương thức khác nhau như nguồn bổ sung từ lợi nhuận,
phát hành cổ phiếu hoặc xin thêm vốn ngân sách hay được trích từ các quỹ
như quỹ dự phòng tổn thất, quỹ đầu tư, quỹ thặng dư vốn...
Tuy nguồn vốn này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn nhưng lại là nguồn quan trọng, cung cấp những cơ sở vật chất ban đầu
để ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, đồng thời cung cấp nền
5
tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng. Bên
cạnh đó, vốn tự có là cơ sở xác định mức nợ tối đa và tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu. Ở Việt Nam, để ngăn chặn và đẩy lùi các rủi ro có thể xảy ra trong
hoạt động của các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nướcquy định:
Dư nợ cho vay tối đa một khách hàng phải nhỏ hơn hoặc bằng 15% vốn tự
có của Ngân hàng thương mại (trừ một số trường hợp Chính phủ cho phép)
và các Ngân hàng thương mại phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có
so với tài sản "Có", kể cả các cam kết ngoại bảng, được điều chỉnh theo
mức độ rủi ro. Hơn thế nữa vốn tự có còn là nguồn tạo uy tín của ngân
hàng, là cơ sở thu hút các nguồn vốn khác và được xem như sự bảo đảm
thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng mất khả năng thanh khoản.
* Phương thức huy động vốn thứ hai là nhận tiền gửi. Tiền gửi của
khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân hàng thương
mại. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các
ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức huy động tiền gửi khác nhau và trả
lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho việc khách hàng hy sinh nhu cầu
tiêu dùng trước mắt để cho ngân hàng sử dụng vốn. Như vậy, khi cung cấp
dịch vụ nhận tiền gửi, ngân hàng thu "phí" gián tiếp thông qua thu nhập của
hoạt động sử dụng tiền gửi đó. Hiện nay, huy động tiền gửi trung và dài
hạn đang là một hình thức phổ biến của các ngân hàng thương mại nhằm
thu hút vốn nhàn rỗi trong thời hạn dài hơn. Các Ngân hàng thương mại tận
dụng tối đa nguồn vốn này để đầu tư các dự án trung và dài hạn.
* Phương thức huy động thứ ba là phát hành các giấy tờ có giá như
phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng. Đây là một
cách huy động vốn rất nhanh của các ngân hàng và nó góp phần đa dạng
hoá các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường chứng khoán, khuyến khích
các tầng lớp dân cư tích luỹ vốn cho đầu tư phát triển.
6
* Một phương thức huy động khác nữa của Ngân hàng thương mại là
đi vay các ngân hàng khác. Nguồn huy động theo phương thức này được
dựa trên mối quan hệ giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà
nướchoặc các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên
hình thức huy động này chỉ mang tính tạm thời nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách trong chi trả và phải chịu chi phí lớn nên trong thực tế nguồn huy
động này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
Ngoài ra ngân hàng còn có thể huy động vốn nhàn rỗi từ các hoạt
động uỷ thác. Các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như
của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như
các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu.Từ đó hình thành nguồn uỷ thác, làm gia
tăng nguồn vốn của ngân hàng.
1.1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
Sử dụng và khai thác các nguồn vốn huy động được là hoạt động chủ
yếu và quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Vốn của Ngân hàng
thương mại thường được sử dụng trong hai hoạt động lớn là tín dụng và đầu tư.
* Hoạt động tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Trong
quan hệ này, bên cho vay chuyển giao tài sản (tiền hoặc hàng hoá) cho bên
đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán. Giá trị thanh toán phải lớn hơn giá trị lúc cho vay.
Khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng thì thuật ngữ
tín dụng ngân hàng chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanh chính và sinh lãi cao nhất của ngân hàng.
Chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng gồm một bên là ngân
hàng, một bên là nhà nước, các tổ chức kinh tế, dân cư...
7
Trong những năm 1960 trở về trước, hoạt động tín dụng của ngân
hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Nhưng sau đó các ngân hàng còn cung cấp
tín dụng cho khách hàng dưới hình thức cho thuê tài sản (tín dụng thuê
mua) hoặc bảo lãnh. Cả hai hình thức này giúp ngân hàng mở rộng tín dụng
cũng như các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán...
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
* Hoạt động đầu tư
Đây cũng là một trong những hoạt động giúp ngân hàng khai thác tối
đa nguồn vốn đã huy động, tăng cường khả năng thanh khoản cho dự trữ
của các ngân hàng thương mại đồng thời tăng thu nhập cho ngân hàng. Các
ngân hàng đầu tư thông qua hoạt động hùn vốn, góp vốn liên doanh và kinh
doanh chứng khoán. Thường khi đầu tư các ngân hàng đều có được những
thông tin chính xác và hoàn hảo nên ít khi gặp rủi ro.
1.1.1.2.3. Các dịch vụ trung gian khác
Bên cạnh hoạt động cơ bản là huy động vốn và hoạt động sử dụng
vốn, các ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ trung gian khác.
Chính việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực
hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả đã tạo ra sự khác biệt và ưu thế cạnh
tranh cho từng ngân hàng. Có thể kể các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
như dịch vụ mua bán ngoại tệ, trung gian thanh toán, dịch vụ uỷ thác và tư
vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, quản lý ngân quỹ, dịch vụ bảo hiểm,
dịch vụ đại lý...
1.1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, bên cạnh việc phải xây dựng và
thực hiện chính sách tín dụng đúng đắn, phải không ngừng đa dạng hoá các
hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Tín
dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:
8
* Phân loại theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay,
bảo lãnh, cho thuê...
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoản thời gian xác định.
Ngân hàng cho thuê khi khách hàng không đủ điều kiện để vay.
Ngân hàng có thể mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho cho
khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định và cũng phải hoàn trả cả
gốc và lãi khi hết hạn.
Bảo lãnh là hoạt động ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Mặc dù không
phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình
để thu lợi.
* Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng thì hoạt động
tín dụng gồm có tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm.
Tín dụng có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải
có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn
đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng
có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc
chắn.
Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có đảm
bảo. Nhưng ngân hàng có thể cấp tín dụng không có bảo đảm cho các
khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi,
tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc
món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Ngoài ra, các khoản cho
vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản
9
đảm bảo, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn... cũng có thể
không cần tài sản đảm bảo.
* Phân loại theo thời gian cho vay có tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn.
Phân theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như
khả năng hoàn trả của khách hàng.
Tín dụng ngắn hạn có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Tín dụng trung hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng tài trợ cho
các tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản
xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi
vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn có thời hạn trên 60 tháng được cung cấp để đáp
ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, mua các thiết bị, phương tiện vận
tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Việc xác định thời hạn trên cũng có tính chất tương đối do nhiều
khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Trên thực tế,
ngân hàng thường gộp tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn thành một _
tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng trung và dài hạn ngày càng chiếm phần
lớn tỷ trọng của ngân hàng vì một mặt chúng đáp ứng yêu cầu vốn trung và
dài hạn của xã hội trong mở rộng sản xuất đầu tư, xây dựng cơ bản, mặt
khác nó phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một cao của ngân hàng.
* Ngoài các tiêu thức trên, ngân hàng còn phân loại tín dụng theo độ rủi
ro, theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng, theo mục đích sản xuất...
10
Với các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn
hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng, cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro
và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo
đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.2. Tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1.Khái niệm và đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
Như đã trình bày ở phần trên, tín dụng ngân hàng thương mại là một
giao dịch về tài sản, tức là bao gồm cả hình thức cho vay (bằng tiền) và cho
thuê (tài sản thực như máy móc, nhà ở, văn phòng...). Tuy nhiên trong
phạm vi bài chuyên đề này, tín dụng ngân hàng chỉ được hiểu hẹp hơn là
chỉ bao gồm hoạt động cho vay.
Tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại là một hình
thức tín dụng ngân hàng được phân loại theo tiêu thức thời gian. Đó là
những khoản cho vay có thời hạn lớn hơn một năm nhằm phục vụ cho việc
làm nhà hoặc đầu tư thực hiện các công trình xây dựng mang tính thương
mại cũng như cho các dự án đầu tư khác.
Đối với một số nước trên thế giới tín dụng dài hạn là loại cho vay có
thời hạn trên 7 năm nhưng tại Việt Nam, theo quy định hiện hành thì các
khoản tín dụng trung hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng (5 năm), và
từ 60 tháng trở lên là tín dụng dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn có các đặc điểm lớn sau:
* Mục đích và đối tượng cho vay
Trong một nền kinh tế, nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường
xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển mở rộng sản
xuất, đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, xây dựng... hoặc do Nhà
nướcvay để đầu tư phát triển đất nước.
11
Đối tượng cho vay là các doanh nghiệp đang đầu tư vào các dự án
mà giá trị vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ chuyển giao, chi phí nhân
công, giá thuê mua các tài sản khác, chi phí mua bảo hiểm và các chi phí
khác đòi hỏi vốn lớn.
* Thời hạn và giá trị khoản vốn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng
bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã
được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Thời hạn cho vay do ngân hàng
và khách hàng thoả thuận. Việc thoả thuận này phải căn cứ vào chu kỳ sản
xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của
khách hàng và khả năng nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Xuất phát từ
việc tín dụng trung và dài hạn được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, tài
trợ cho các hạng mục công trình, dự án đầu tư xây dựng... do đó thời hạn
cho vay trung và dài hạn thường dài (hơn một năm) và giá trị của các khoản
cho vay trung và dài hạn thường rất lớn.
* Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn
Về nguyên tắc, để hoạt động an toàn, ngân hàng cấp tín dụng trung
và dài hạn cho khách hàng từ những nguồn vốn ổn định và có thời gian
tương đương, bao gồm nguồn vốn tự có của ngân hàng do góp vốn hoặc do
tích luỹ được trong quá trình kinh doanh; vốn huy động dưới hình thức tiền
gửi trung và dài hạn, phát hành trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi dài hạn;
nguồn vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước, vay trên thị trường liên ngân hàng,
vay nợ nước ngoài; vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương
trình hoặc dự án đầu tư.
Tuy nhiên, các ngân hàng thường phản ánh rằng ngân hàng không đủ
vốn trung và dài hạn để cho vay trung dài hạn. Trước tình hình đó Ngân
hàng Nhà nướcđã mở rộng quy định về việc dùng vốn ngắn hạn định kỳ
vào việc cho vay trung và dài hạn. Các ngân hàng xem xét, tính toán nguồn
12
này để trích ra một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó tuỳ thuộc vào sự biến
động của quá trình gửi tiền và rút tiền của khách hàng để tạo ra một nguồn
ổn định lâu dài để cho vay dài hạn. Việc làm này có thể mang lại lợi nhuận
cao cho ngân hàng do lãi suất huy động ngắn hạn nhỏ hơn lãi suất huy động
dài hạn và lãi suất cho vay dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn. Song ngân hàng cũng rất ngại đối với rủi ro có thể gặp phải là rủi ro về
thanh khoản. Với nguồn vốn trung và dài hạn còn hạn chế ở các Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nướcđã cho phép các ngân hàng
có thể sử dụng 25% - 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn - tạo
đều kiện thuận lợi cho các ngân hàng chủ động, linh hoạt trong cho vay.
* Rủi ro và lãi suất cho vay
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có thời hạn cho vay dài nên đi
kèm với nó là rủi ro rất lớn bởi vì trong thời gian đó có thể xảy ra nhiều
biến động lớn như về giá cả, ngoại hối, thuế, tâm lý người dân, chính sách
pháp luật... Hơn thế nữa, giá trị khoản vay lớn nên khi rủi ro xảy ra sẽ càng
gây những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Mặc dù ngân hàng đã
thẩm định, phân tích các thông tin trước khi ra quyết định cho vay nhưng
rủi ro vẫn xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ phía
khách hàng. Do đó để đảm bảo an toàn vốn vay, đảm bảo tăng trách nhiệm
của người vay đối với khoản tiền vay, ngân hàng buộc các khách hàng phải
có tài sản đảm bảo cho món vay.
Giữa rủi ro và lãi suất có mối quan hệ với nhau. Thời hạn càng dài,
rủi ro càng lớn thì lãi suất vay càng cao bởi vì ngân hàng phải trang trải
những chi phí để bù đắp rủi ro lớn và những chi phí huy động và quản lý
nguồn vốn phục vụ cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Lãi suất cho
vay được xác định tuỳ thuộc vào lãi suất huy động, tỷ lệ lạm phát, lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng và ở Việt Nam còn phụ thuộc vào lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nướcquy định.
13
* Nguyên tắc cho vay trung và dài hạn
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân