Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may

Cùng với quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam khi bước vào thời kỳ CNH-HĐH đất nước thì không thông hình thành một ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Nhưng thiếu vốn đang là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, không thể có con đường nào khác là phát triển liên doanh liên kết với nước ngoài nhằm thu hút thêm vốn để hiện đại hoá công nghệ sản xuất những mặt hàng chất lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ảnh hưởng lớn tới việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu đó là một hướng đi đúng đắn trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp của ta. Hoà chung trong xu thế đó ngành công nghiệp dệt may góp một phần không nhỏ của mình trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của nước ta ra bên ngoài. Trong đó, sản phẩm hàng dệt may thuộc khu vực đầu tư nước ngoài Việt Nam có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đây chính là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động nữ, suất đầu tư cho mỗi lao động thấp, triển khai hoạt động đầu tư nhanh, rất thích ứng với những nước đang phát triển như nước ta. Đó cũng chính là lý do mà tại sao ngành dệt may là một trong những ngành thu hút được nhiều vốn dự án đầu tư nhất. Đầu tư nước ngoài trong ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy nhược điểm lớn nhất vẫn là chưa thoát khỏi phương thức gia công còn đơn giản, phía Việt Nam chưa chủ động tạo ra khuôn mẫu mã, kiểu dáng, tiếp cận thị trường bên ngoài và khác hàng mà phần lớn là do đối tác nước ngoài đảm trách. Bên cạnh đó, ở Việt Nam dường như có sự khập khiễng giữa 2 ngành này trong vấn đề giải quyết nguyên liệu cho ngành dệt và ngành dệt là sản phẩm đầu vào cho ngành may. Do đó, mà chưa có tiếng nói chung giữa 2 ngành để cùng phát triển.

pdf98 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may 2 Lời mở đầu Cùng với quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam khi bước vào thời kỳ CNH-HĐH đất nước thì không thông hình thành một ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Nhưng thiếu vốn đang là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, không thể có con đường nào khác là phát triển liên doanh liên kết với nước ngoài nhằm thu hút thêm vốn để hiện đại hoá công nghệ sản xuất những mặt hàng chất lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ảnh hưởng lớn tới việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu đó là một hướng đi đúng đắn trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp của ta. Hoà chung trong xu thế đó ngành công nghiệp dệt may góp một phần không nhỏ của mình trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của nước ta ra bên ngoài. Trong đó, sản phẩm hàng dệt may thuộc khu vực đầu tư nước ngoài Việt Nam có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đây chính là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động nữ, suất đầu tư cho mỗi lao động thấp, triển khai hoạt động đầu tư nhanh, rất thích ứng với những nước đang phát triển như nước ta. Đó cũng chính là lý do mà tại sao ngành dệt may là một trong những ngành thu hút được nhiều vốn dự án đầu tư nhất. Đầu tư nước ngoài trong ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy nhược điểm lớn nhất vẫn là chưa thoát khỏi phương thức gia công còn đơn giản, phía Việt Nam chưa chủ động tạo ra khuôn mẫu mã, kiểu dáng, tiếp cận thị trường bên ngoài và khác hàng mà phần lớn là do đối tác nước ngoài đảm trách. Bên cạnh đó, ở Việt Nam dường như có sự khập khiễng giữa 2 ngành này trong vấn đề giải quyết nguyên liệu cho ngành dệt và ngành dệt là sản phẩm đầu vào cho ngành may. Do đó, mà chưa có tiếng nói chung giữa 2 ngành để cùng phát triển. 3 Mặt khác, do tính phân công lao động tự nhiên dựa trên giá nhân công trên thế giới và xu hướng chuyển dịch ngành dệt may thế giới vào các nước đang phát triển như nước ta. Cho nên, ngành dệt may của ta đang là ngành có lợi thế so sánh với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Với những lợi thế và khó khăn chung của nền kinh tế nói chung và của ngành dệt may nói riêng. Chúng ta cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể, những hướng đi đúng đắn nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may tạo ra một bước đi đột phá trong công nghiệp dệt may xứng đáng là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của phần vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá chung của nước ta. Đưa nước ta trở thành một nước CNH – HĐH xứng tầm khu vực và thế giới. Chính từ sự trăn trở đó, cũng như ý nghĩa vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dệt may, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.Tuy nhiên, đây là vấn đề khó cần được phân tích tổng hợp ở mức độ cao nhưng do khả năng và thông tin có hạn, nên bài viết sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở tiềm năng và triển vọng của hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua, phân tích và đánh giá thực trạng của ngành dệt may. Từ đó đưa ra những giải pháp để tăng cường khả năng thu hút thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thay đổi hướng sản xuất, đầu tư trang thiết bị máy móc cho toàn ngành nhằm đẩy mạnh khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Nội dung đề tài bao gồm các phần sau: Chương I : Một số lýluận chung về đầu tư , đầu tư trực tiếp nước ngoài . Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may . 4 Chương III : Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . PHẦN I TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VỚI TĂNG TRỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ. 5 I. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ: 1-Khái niệm về vốn đầu tư và các nguồn hình vốn đầu tư 1.1.Khái niệm: Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đều cần phải có vốn. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mới hình thành, số tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị...để tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật (các tài sản cố định) cho các cơ sở này tạo ra vốn lưu động thông qua hoạt động mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động... trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động, thì số tiền này dùng để mua sắm thêm máy móc thiết bị xây dựng thêm nhà xưởng hoặc mua sắm thêm các tài sản cố định thay thế các tài sản cố định đã bị hư hỏng hoặc đã bị hao mòn. Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động là rất lớn, không thể trích ra một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các cơ sở, các xã hội vì điều này sẽ làm xáo động mọi hoạt động bình thường của sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Do vậy số tiền sử dụng cho các hoạt động trên đây chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh là tiền tiết kiệm của nhân dân và vốn huy động từ nước ngoài. Từ đây ta có thể rút ra định nghĩa ngắn gọn về vốn đầu tư. ’Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của nhân dân đa vào nhằm thay thế tài sản cố định bị loại thải để tăng tài sản cố định mới và tăng tài sản tồn kho’’ 1.2. Các nguồn hình thành vốn đầu tư Bất kỳ một xã hội nào muốn phát triển không ngừng đều phải tiến hành đầu tư để đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở 6 rộng. Cụ thể là phải tạo ra các nguồn đầu vào cho sản xuất như sức lao động, tư liệu lao động. Nói cách khác chúng ta cần phải có tiền để trang trải các chi phí ứng trước này. 1.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước: * Vốn ngân sách Nhà nước: Được hình thành từ quỹ tiết kiệm ngân sách. Tiết kiệm ngân sách của Nhà nước là khoản chênh lệch giữa tổng thu ngân sách và chi của Chính phủ. * Vốn tự có của doanh nghiệp: được hình thành do doanh nghiệp tự bỏ ra nếu là doanh nghiệp Nhà nước; là doanh nghiệp liên doanh thì các bên cùng bỏ vốn; là doanh nghiệp tư nhân do tư nhân tự bỏ vốn ra. Lợi nhuận của doanh nghiệp có một phần để bổ xung cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp. * Vốn của tư nhân và vốn các hộ gia đình: là các khoản tiết kiệm từ các nguồn thu có được từ dân cư và từ các hộ gia đình. * Vốn của các tổ chức tín dụng: là nguồn vốn được các tổ chức tín dụng huy động từ vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và dân cư.. thông qua các kênh tín dụng. 1.1.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài. * Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn với lãi suất thấp và thời gian gia hạn dài) của chính phủ, các nước của tổ chức liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế như: ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu á (ADB), quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) dành cho chính phủ nhân dân nước viện trợ mà chủ yếu dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi của các nước này. 7 - Đặc điểm của nguồn vốn ODA: + Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp. + Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. + Các nước nhận vốn ODA phải có một số điều kiện nhất định theo quy định của từng nhà tài trợ mới đợc nhận tài trợ. + Chủ yếu dành sự hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, y tế, giáo dục... + Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương hoặc các tổ chức viện trợ song phương. * Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (non - Government organization - NGO). Viện trợ NGO đều là các viện trợ không hoàn lại, trước đây loại viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo như: cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế, lương thức cho các nạn nhân thiên tai,...Hiện nay hình thức này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chơng trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trơ của các chuyên gia thường trú về các mặt như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn, cung cấp dinh dưỡng và sức khoẻ ban đầu.. * Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct investment - FDI) Đây là nguồn vốn của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm sau: Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, 8 không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực chủ đầu tư chỉ đợc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn 49%. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quyết định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án. - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi quản lý... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng nh vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được. 2.Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó, những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để đo lường hiệu quả của vốn đầu tư thấy được vai trò của vốn đầu tư với tăng trởng kinh tế, ta lần lợt xem xét các lý thuyết: 2.1. Mô hình tái sản xuất mở rộng trong lý thuyết kinh điển: Trong tác phẩm “Tư bản”, C. Mác đã dành phần quan trọng để nghiên cứu về cân đối kinh tế về mối quan hệ về giữa hai khu vực của nền sản xuất xã hội để đảm bảo quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng và các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ. 9 Với những giả định về một nền kinh tế không có trao đổi ngoại thương C.Mác đã chững minh điều kiện để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng. Nền kinh tế chia thành hai khu vực: Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất. Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng. Và cơ cấu tổng giá trị của các khu vực bao gồm (C+V+M) trong đó: C là phần tiêu hao vật chất; V+M là giá trị mới sáng tạo ra. Để quá trình tái sản xuất mở rộng được thực hiện phải đảm bảo giá trị mới sáng tạo ra (V+M)I của khu vực I phải lớn hơn tiêu hao vật chất CII của khu vực II: (V+M) > CII hay là (C+V+M)I > (CI+CII) Như vậy, tư liệu sản xuất làm ra không những chỉ bồi hoàn cho những tiêu hao (CI+CII) trong cả hai khu vực của nền kinh tế mà tư liệu sản xuất còn phải sản xuất dư thừa để tham gia quá trình đầu tư làm tăng thêm quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Quá trình tái sản xuất xã hội bao quát nhiều quá trình rộng lớn từ lực l- ợng sản xuất cho đến quan hệ sản xuất. Đầu tư là nhằm tạo ra vốn sản xuất, một yếu tố quan trọng cùng với tái tạo lưc lượng lao động sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất không ngừng. Trong điều kiện mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay, đầu tư với số vốn như trước cũng có thể tạo ra những vốn sản xuất có năng lực lớn hơn. 2.2 Mô hình tăng trởng của Harrod - Domas 10 Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40, với sự nghiên cứu của một cách độc lập hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domas ở Mỹ đã đa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và thất nghiệp ở các nước phát triển, mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị nào, dù là một công ty, một ngành, hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trởng của đầu ra là g thì: g= tY Y Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S: s = t t Y S Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm St = It s = t t Y I Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do It = Kt + 1 Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn - đầu ra ta sẽ có: k = Y 1K t   hay k = Y I t  vì tY Y = tt t Y.I Y.Y  = Y I: Y I t t t  tức là: g = k s 11 Trong đó: S: số tiền tiết kiệm hàng năm. I: Vốn đầu tư hàng năm. K: Vốn sản xuất hàng năm. Ở đây k gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói lên rằng vốn đợc tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trởng. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Hệ số ICOR giữa các nước khác nhau là khác nhau. Các nước càng phát triển thì hệ số ICOR càng lớn. Kinh nghiệm các nước cho thấy chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thờng ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế (chủ yếu tận dụng do năng lực sản xuất sẵn có) thấp hơn trong giai đoạn tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hoá (phải xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong những năm tới). Tóm lại, mặc dù mô hình Harrod - Domas đơn giản nhng cho ta thấy rõ đợc vai trò của vốn đầu tư với tăng trởng kinh tế. Các nhà lập kế hoạch có thể căn cứ vào mô hình này để xác định tỷ lệ tiết kiệm và vốn đầu tư cần thiết để đạt được mức độ tăng trởng kinh tế đề ra. 2.3 Tác động của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo kinh tế học vĩ mô, khi có một sự thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu do vậy sẽ tác động sản lượng công ăn việc làm. DL DL1 DL0 Y0 Y1 AS AD1 AD0 12 Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 - AD1 do vậy làm cho mức sản lượng tăng lên từ Y0 - Y1 và mức giá cũng tăng lên từ DL0 - DL1. Ngày nay, vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trĩnh, vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu , hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở rộng ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. II. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nớc ngoài với tăng trưởng, phát triển kinh tế 1.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài : Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là cùng một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp , các cá nhân ngời nớc ngoài (chủ đầu tư )trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng và vận hành kết quả đầu t nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra và có lãi. 2.Vai trò của vốn FDI với tăng trưởng kinh tế. 13 Đầu tư là nhân tố quan trọng của mọi quá trình phát triển kinh tế xã hội cho mọi quốc gia. Đối với tất cả các nước thì đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội của đất nước đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, các nước Trung- Đông Âu... Nó là điều kiện quan trọng để khai thác và phát triển nguồn lực trong nước. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những chính sách kinh tế quan trọng của mỗi nước. Ví vậy, họ đều cố gắng đa ra những chính sách cởi mở nhất để đầu tư nước ngoài. Thực chất của đầu tư nước ngoài là hình thức hợp tác kinh tế giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài nhằm các mục tiêu khác nhau cả trên góc độ nhà đầu tư và nước chủ nhà.Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ hai khi thị trường tư bản phát triển, cạnh tranh quốc tế trở nên gay gắt, các khu vực kinh tế thế giới xuất hiện và bớc vào sự phân công quốc tế mới về kinh tế. Đối với các nhà đầu tư, đầu tư nước ngoài là một hình thức đầu tư để thu lợi nhuận cho công ty. Nó quyết định sự sống còn và phát triển của công ty ở một thị trường nước ngoài nhờ khai thác lợi thế so sánh của nước ngoài như nguyên liệu, lao động, thị trường.. . Đối với các nước công nghiệp mới và các nền kinh tế chuyển đổi thì đầu tư nước ngoài không những cung cấp vốn cho phát triển kinh tế trong nứơc mà còn tạo thêm việc làm cho ngời lao động góp phần giảm thất nghiệp, tạo ra những ngành công nghiệp mới, đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao và các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu. Vai trò của đầu tư trực tiếp nớc ngoài đối với các nước nhận đầu tư đư- ợc thể hiện ở một số mặt cụ thể sau: Một là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng, bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế. 14 Hai là: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm và tăng thu nhập cho ngời lao động. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đòi hỏi nguồn lao động có chất lợng cao do đó sự gia tăng của các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt các nước sở tại trước yêu cầu khách quan là phải nâng cao chất lợng , trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ cho người lao động. Ba là: Đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến cân đối của nền kinh tế, hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng tỉ trọng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Bốn là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá để tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Mặt khác, sự gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều ngành mới, lĩnh vực mới, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật, công nghệ của nhiều ngành kinh tế, thúc đẩy sự tăng năng suất lao động của các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế . Nhiều ngành được kích thích phát triển còn nhiều ngành bị mai một và đi đến xoá sổ. Năm là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển, tận dụng, tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển đã sử dụng để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trởng kinh tế, thoát khỏ