Đổi mới hoạt động Ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra nh ững yêu cầu, thách thức về mở rộng các dịch vụ
Ngân hàng. Trước những y êu cầu về hội nh ập nói chung và quá trình đàm phán gia
nhập WTO nói riêng, ngành ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chiến
lược, chính sách thích hợp để đảm bảo quá trình hội nhập thành công, mang lại lợi
ích thật sự cho nền kinh tế Việt Nam. Chiến lược ấy chắc chắn phải đặt vị thế của
công tác thanh toán lên hàng đầu. Bởi ho ạt động của ngân hàng ở bất cứ hình thức
nào cũng được kết thúc ở việc thanh- quyết toán.
Trong tình hình mới, một trong những khó khăn, trăn trở nhiều nhất của các
ngân hàng là việc cải tạo hệ thống thanh toán đáp ứng được y êu cầu mới, theo kịp
xu hướng phát triển của quốc tế, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư, đẩy nhanh quá
trình chu chuyển vốn cho nền kinh tế. Thanh to án chuyển tiền điện tử ra đời là tất
yếu của sự bùng nổ công nghệ thông tin. Tuy còn mới mẻ nhưng nó đã khẳng định
những tính năng ưu việt nhất định, đồng thời đánh dấu một bước vươn mình mạnh
mẽ trong công tác thanh toán của ngành Ngân hàng.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Chi nh ánh Ngân hàng Công thương
Đống Đa- Hà Nội, em đã được tiếp cận khá đầy đủ các nghiệp vụ ngân hàng và
đặc biệt quan tâm đến hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử của Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Đống Đa. Từ nhận thức tầm quan trọng của công tác thanh
toán, em nhận thấy việc nâng cao chất lượng hệ thống thanh toán chuyển tiền điện
tử là một vấn đề đầy bức xúc và cấp thiết.
88 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1699 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh toán chuyển tiền điện tử tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
Luận văn
Giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác thanh
toán chuyển tiền điện tử tại
Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Đống Đa-Hà Nội
Trang 2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đổi mới hoạt động Ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra những yêu cầu, thách thức về mở rộng các dịch vụ
Ngân hàng. Trước những yêu cầu về hội nhập nói chung và quá trình đàm phán gia
nhập WTO nói riêng, ngành ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chiến
lược, chính sách thích hợp để đảm bảo quá trình hội nhập thành công, mang lại lợi
ích thật sự cho nền kinh tế Việt Nam. Chiến lược ấy chắc chắn phải đặt vị thế của
công tác thanh toán lên hàng đầu. Bởi hoạt động của ngân hàng ở bất cứ hình thức
nào cũng được kết thúc ở việc thanh- quyết toán.
Trong tình hình mới, một trong những khó khăn, trăn trở nhiều nhất của các
ngân hàng là việc cải tạo hệ thống thanh toán đáp ứng được yêu cầu mới, theo kịp
xu hướng phát triển của quốc tế, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư, đẩy nhanh quá
trình chu chuyển vốn cho nền kinh tế. Thanh toán chuyển tiền điện tử ra đời là tất
yếu của sự bùng nổ công nghệ thông tin. Tuy còn mới mẻ nhưng nó đã khẳng định
những tính năng ưu việt nhất định, đồng thời đánh dấu một bước vươn mình mạnh
mẽ trong công tác thanh toán của ngành Ngân hàng.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương
Đống Đa- Hà Nội, em đã được tiếp cận khá đầy đủ các nghiệp vụ ngân hàng và
đặc biệt quan tâm đến hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử của Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Đống Đa. Từ nhận thức tầm quan trọng của công tác thanh
toán, em nhận thấy việc nâng cao chất lượng hệ thống thanh toán chuyển tiền điện
tử là một vấn đề đầy bức xúc và cấp thiết. Điều này khiến em chọn đề tài: “Giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh toán chuyển tiền điện tử tại Chi
nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa-Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Từ cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động thanh toán chuyển tiền điện tử tại
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa-Hà Nội, em xin đưa ra một số giải
Trang 3
pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thanh toán chuyển tiền điện tử
tại ngân hàng trong thời gian tới.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
Chuyên đề tập trung trình bày những nội dung chủ yếu về hoạt động thanh
toán chuyển tiền điện tử tại CN NHCT Đống Đa Hà Nội từ năm 2003 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Chuyên đề sử dụng phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, tiếp cận hệ
thống lý luận và thực tiễn, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để phân tích và xử lý các vấn đề nghiên cứu.
5. Chuyên đề gồm ba chương.
Chương I: Lý luận chung về Ngân hàng thương mại và hệ thống thanh
toán chuyển tiền điện tử của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác thanh toán chuyển tiền điện tử tại Chi
nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa -Hà Nội trong thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
công tác thanh toán chuyển tiền điện tử tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương
Đống Đa- Hà Nội.
Do còn hạn chế về thời gian nghiên cứu, tài liệu thu thập cũng như trình độ
hiểu biết, đề tài nghiên cứu của em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
các thầy cô giáo cùng các bạn độc giả quan tâm, tham gia đóng góp ý kiến quý báu
cho đề tài thêm phong phú.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2006
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thục Bình
Trang 4
Trang 5
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
HỆ THỐNG THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 Ngân hàng thương mại và việc tổ chức thanh toán giữa các NHTM.
1.1.1 Vài nét khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM).
Ngân Hàng (NH) được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài
với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỷ
thứ XV đến thế kỷ thứ XVIII, các NH còn hoạt động độc lập với nhau. Đó là trung
gian tín dụng, trung gian thanh toán cho nền kinh tế và phát hành giấy bạc cho NH.
Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển. Việc các NH
cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm cho lưu thông có
nhiều loại giấy bạc khác nhau đã cản trở cho quá trình lưu thông hàng hóa phát
triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến phân hoá hệ thống NH. Lúc này hệ thống
NH đã phân làm hai nhóm: thứ nhất là nhóm các NH được phép phát hành tiền,
được gọi là NH phát hành sau đổi thành NHTW. Thứ hai là các NH không được
phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền
kinh tế được gọi là NH trung gian. Đây là một mắt xích cực kỳ quan trọng nối giữa
NHTW với nền kinh tế, cũng như là cầu nối để những người có vốn và những
người cần vốn gặp nhau.
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện sự phân hoá hệ thống NH, các NH trung gian
thực hiện tất cả các hoạt động của nó như nhận tiền gửi, cho vay và làm các dịch
vụ thanh toán. Ban đầu, các NH chủ yếu nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn
ngắn và cho vay ngắn hạn. Về sau, nó thực hiện cả cho vay trung hạn, dài hạn bằng
nguồn vốn trung hạn, dài hạn do huy động tiền gửi trung hạn, dài hạn và phát hành
trái khoán.
Hoạt động NH ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của thị trường
chứng khoán đòi hỏi hình thành nên những NH, những trung gian tài chính chuyên
hoạt động trong một lĩnh vực nào đó, phân chia NH trung gian thành các NH hoạt
Trang 6
động trong lĩnh vực riêng: NHTM, NH đầu tư, NH phát triển...
Đặc trưng NH được thể hiện rõ nhất thông qua các chức năng sau:
-Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội.
-Chức năng trung gian thanh toán.
-Chức năng làm trung gian tín dụng.
-Chức năng “tạo tiền”.
NH làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng như: trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng, tiền thu bán hàng và các
khoản thu khác theo lệnh của họ.
NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức
năng làm thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên
tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để NH thực hiện vai trò trung gian
thanh toán. Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh
tế có nhiều hạn chế như rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc
biệt là với khách hàng ở cách xa nhau.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng với nền kinh tế.
Trước hết, thanh toán không dùng tiền mặt qua NH góp phần tiết kiệm chi phí
lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. Khả năng lựa chọn hình thức
thanh toán thích hợp cho phép khách hàng thực hiện thanh toán chính xác hiệu
quả. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển
vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.
Mặt khác, việc cung ứng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt có chất
lượng làm tăng uy tín cho NH và do đó tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền
gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do vậy,
chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của NHTM
mới được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ cho xã hội.
Trang 7
1.1.2 Khái niệm, sự cần thiết và ý nghĩa thanh toán giữa các NHTM.
Khái niệm: Thanh toán giữa các NH là việc thanh toán vốn tiền tệ giữa các
chi nhánh NH trong cùng hệ thống hoặc giữa các NH khác hệ thống phát sinh trên
cơ sở đáp ứng yêu cầu thanh toán hàng hoá, dịch vụ và điều chuyển của các đơn vị,
tổ chức kinh tế, cá nhân và nghiệp vụ điều chuyển tiền của chính bản thân NH.
Sự cần thiết thanh toán giữa các NH: Hoạt động kinh tế ngày càng phát triển,
theo đó là sự phát triển của thanh toán tiền tệ trong nước và quốc tế. Mối quan hệ
ngày càng đa dạng, điều đó không chỉ đòi hỏi sự gia tăng hoạt động của hệ thống
ngân hàng nói chung mà còn làm cho hoạt động thanh toán vốn giữa các NH ngày
càng trở nên cần thiết. Điều đó thể hiện như sau:
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì việc trao đổi hàng hoá dịch vụ không chỉ
bó hẹp ở một địa phương mà nó còn mở rộng ra mọi miền đất nước. Hiện nay,
nhiều hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng khác nhau có mạng lưới chi nhánh
trong toàn quốc. Bên cạnh đó, khách hàng được quyền lựa chọn NH để mở tài
khoản cho mình. Do đó, thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ giữa người mua và người
bán qua hai NH khác nhau là rất cần thiết. Nó giúp cho việc thanh toán các khoản
nợ giữa các tác nhân trong nền kinh tế một cách dễ dàng, nhanh chóng, đem lại
hiệu quả to lớn cho kinh tế-xã hội.
Việc cấp chuyển vốn, kinh phí, chuyển tiền thực hiện nghĩa vụ ngân sách diễn
ra thường xuyên, liên tục đòi hỏi phải có nghiệp vụ thanh toán giữa các NH để đáp
ứng yêu cầu của việc chuyển vốn trong nền kinh tế.
Ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ là nơi cung ứng các dịch vụ thanh
toán mà còn là chủ thể tổ chức tham gia vào hệ thống thanh toán, thực hiện việc
thanh toán trong phạm vi nội bộ của chính hệ thống các NH như: điều chuyển vốn,
cấp vốn, chuyển nhượng tài sản, nộp khấu hao, chuyển lãi lỗ...đảm bảo cho việc
quản lý và sử dụng vốn được khép kín trong toàn hệ thống NHTM.
Để làm tốt các nghiệp vụ trên, thanh toán giữa các NH ra đời là một tất yếu.
Ý nghĩa:
Thanh toán giữa các NH là hành lang cho thanh toán không dùng tiền mặt
phát triển.
Trang 8
Thanh toán giữa các NH góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá phát
triển, bởi nếu tổ chức tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các NH sẽ đảm bảo cho thanh
toán nhanh, chính xác, an toàn. Từ đó giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân thu hồi
vốn nhanh, đầy đủ để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Thể hiện chức năng tập trung vốn trong thanh toán của NH trong nền kinh tế
quốc dân là NH đã phát huy được vai trò giám đốc đối với nền kinh tế, nâng cao
uy tín, góp phần tăng cường vai trò làm trung gian thanh toán cho nền kinh tế.
Thực hiện thanh toán giữa các NH giúp cho NH và các TCTD thu hút được
lượng vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư để
cho vay phục vụ phát triển kinh tế, tăng trưởng nguồn vốn cho NH. Ngoài ra,
thông qua các dịch vụ thanh toán, NH đã tiết kiệm được chi phí trong lưu thông,
chi phí bảo quản, hạn chế tham ô, lợi dụng, bảo vệ an toàn tài sản...Trong quá trình
thanh toán, người mua không phải mang một lượng tiền mặt rất lớn để thanh toán
cho người bán mà thực hiện thanh toán thông qua các dịch vụ thanh toán qua NH.
Thanh toán giữa các NH không chỉ tạo điều kiện cho các NH tổ chức quản lý
vốn và điều hoà vốn có hiệu quả trong cả nước mà còn tạo điều kiện nối liền các
cơ sở NH thành một hệ thống chặt chẽ và điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống NH.
Điều đó làm tăng tốc độ vòng quay vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình
trạng có NH thừa vốn mà vẫn phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng, trong khi đó lại
có NH thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh có thể
thu được nguồn lợi lớn. Thông qua điều chuyển vốn, NH thiếu vốn vẫn giữ được
khách hàng và tiến hành hoạt động kinh doanh trôi chẩy, chi nhánh thừa vốn vẫn
có thu nhập từ nguồn vốn thừa do hưởng lãi suất điều hoà.
1.1.3 Điều kiện thanh toán giữa các NH.
Như ta đã biết, thanh toán giữa các NH là việc thanh toán vốn tiền tệ giữa
các chi nhánh NH trong cùng hệ thống hoặc giữa các NH khác hệ thống phát sinh
trên cơ sở đáp ứng yêu cầu thanh toán hàng hoá, dịch vụ và điều chuyển của các
đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân và nghiệp vụ điều chuyển tiền của chính bản thân
NH. Vì vậy, điều kiện thanh toán giữa các NH là:
Điều kiện pháp lý: Phải xây dựng được hệ thống pháp lý ổn định và tin cậy,
thể lệ và chế độ đồng bộ, tạo cơ sở vững chắc để tổ chức nghiệp vụ thanh toán. Hệ
Trang 9
thống pháp lý chặt chẽ là cơ sở để giải quyết các tranh chấp nẩy sinh và ngăn ngừa
các sai phạm trong thanh toán.
Thực hiện thanh toán qua tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng khác phải có sự
thoả thuận bằng văn bản của hai ngân hàng chủ quản, đồng thời, phải theo đúng
nguyên tắc mở và sử dụng tài khoản. Thanh toán kịp thời, cập nhật chính xác, an
toàn tài sản, không được chiếm dụng vốn lẫn nhau.
Đối với uỷ nhiệm chi hộ, thu hộ phải có văn bản thoả thuận và cam kết chặt
chẽ giữa hai ngân hàng bảo đảm sự tín nhiệm trong thanh toán. Định kỳ, hai bên
phải đối chiếu, thanh toán sòng phẳng với nhau.
Đối với thanh toán bù trừ: Các NHTM, TCTD, Kho Bạc Nhà Nước muốn
tham gia thanh toán bù trừ phải có đơn xin tham gia thanh toán bù trừ, phải chấp
hành nội quy trong thanh toán như: giới thiệu người giao dịch, mẫu chữ ký, chấp
hành giờ truyền nhận dữ liệu hay phiên giao dịch.
Điều kiện về tổ chức và kỹ thuật: Thanh toán giữa các ngân hàng phải được
tổ chức một cách khoa học, áp dụng kỹ thuật hiện đại đảm bảo thanh toán chính
xác, nhanh chóng, an toàn, chi phí thấp; phải có trung tâm xử lý thông tin nhanh
nhậy, thông suốt theo các chuẩn mực quy định của NHNN nhằm đáp ứng được các
phương thức thanh toán giữa các NH. Thông tin phải được cập nhật và lưu trữ, bảo
quản cẩn trọng, đảm bảo tính bảo mật cao. Phải bố trí những người có trách nhiệm
cao, trung thực và thành thạo nghiệp vụ thanh toán giữa các NH, đẩy nhanh tốc độ
và sự an toàn trong thanh toán.
Điều kiện về vốn: Các NHTM thực hiện thanh toán giữa các NH phải có đủ
khả năng cân đối nguồn và sử dụng vốn, phải chuẩn bị được đủ lượng vốn đảm
bảo khả năng thanh khoản, đáp ứng nhu cầu về vốn trong thanh toán. Trường hợp
làm mất khả năng thanh toán phải chịu phạt theo quy định.
Các NHTM khi thực hiện thanh toán qua thanh toán bù trừ phải luôn duy trì
tồn quỹ tiền mặt và số dư trên tài khoản tiền gửi cần thiết tại NHNN để đảm bảo
cho khả năng thanh toán, sẵn sàng chi trả cho khách hàng. Trường hợp thiếu vốn
thanh toán thì vay Ngân hàng chủ trì hoặc Ngân hàng thành viên.
Trang 10
1.1.4 Các nghiệp vụ thanh toán của NH và sự phát triển của chúng.
1.1.4.1 Các hình thức thanh toán (Means of payment).
Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì các hoạt động nghiệp vụ của NH cũng
không ngừng mở rộng và phát triển. Các nghiệp vụ này ngày càng được cải tiến
phù hợp với xu hướng phát triển chung về khoa học công nghệ trên thế giới, trong
đó lĩnh vực thanh toán đặc biệt quan trọng với điều kiện và trình độ phát triển của
mỗi nưóc. Nhìn chung, các nước có nền kinh tế thị trường thì hình thức thanh toán
qua NH phổ biến sau đây:
Hình thức thanh toán séc:
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn do NHNN quy
định để yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán
của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc hoặc người cầm séc.
Séc là hình thức thanh toán lâu đời, phổ biến nhất ở hầu hết các NH trên thế
giới với tiêu đề: Cheque (tiếng Anh), Chéque (tiếng Pháp) dịch ra tiếng Việt là
“chi phiếu”. Séc bao gồm nhiều loại khác nhau: séc ký danh, séc vô danh, séc tiền
mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức, séc cá nhân, séc du lịch.
Đối tượng áp dụng: Séc thường được áp dụng để thanh toán chi trả các khoản
tiền hàng hoá dịch vụ, công nợ.
Phạm vi áp dụng: Bên mua và bên bán phải mở tài khoản tại cùng một NH
hoặc khác NH cùng một hệ thống. Trường hợp bên mua và bên bán có tài khoản
tại hai NH khác hệ thống thì hai đơn vị thanh toán đó phải tham gia thanh toán bù
trừ giao nhận chứng từ trực tiếp.
Điều kiện để séc được NH chấp nhận thanh toán:
-Người phát hành séc chỉ được ghi số tiền trên séc trong phạm vi số dư tài
khoản tiền gửi của họ tại NH. Nếu phát hành quá số dư NH không chấp nhận thanh
toán đồng thời, NH còn áp dụng phạt vi phạm hợp đồng thanh toán và phạt chậm
trả.
-Trường hợp có nhiều tờ séc nộp vào NH cùng một lúc để đòi tiền từ một tài
khoản mà số dư trên tài khoản đó không đủ để thanh toán toàn bộ những tờ séc đó
thì thứ tự thanh toán được xác định theo số séc đã phát hành, các séc có số thứ tự
nhỏ hơn sẽ được thanh toán.
Trang 11
-Séc phải đảm bảo tính hợp pháp hợp lệ cả về hình thức và nội dung.
Séc chuyển khoản là loại thanh toán do chủ tài khoản phát hành trực tiếp để
trả tiền cho người thụ hưởng trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của
mình tại NH. Loại séc này rất tiện lợi cho bên mua nhưng không tiện lợi cho bên
bán. Do đó, trong thanh toán truyền thống, séc được ghi theo nguyên tắc ghi nợ
trước ghi có sau.
Trường hợp bên bán yêu cầu bên mua có sự xác nhận của đơn vị thanh toán
trên tờ séc, khi nhận được yêu cầu, đơn vị thanh toán sẽ làm thủ tục bảo chi trên cơ
sở số tiền mà người phát hành đã lưu ký. Vì vậy, người chịu trách nhiệm thanh
toán séc là NH hay đơn vị thanh toán bảo chi séc.
Có thể thấy, việc áp dụng séc bảo chi rất có lợi cho người thụ hưởng. Người
thụ hưởng chắc chắn sẽ nhận được tiền, do đó, người thụ hưởng không bị mất vốn,
không bị chiếm dụng vốn. Quá trình thanh toán được thực hiện nhanh chóng vì NH
bảo chi séc hoặc NH phục vụ người thụ hưởng ghi có ngay cho người thụ hưởng.
Ngược lại, khi áp dụng thanh toán bằng séc bảo chi, người mua lại phải làm thủ tục
ruờm rà để được bảo chi séc, phải lưu ký tiền trên tài khoản tiền gửi bảo chi séc và
không được hưởng lãi trên số tiền lưu ký đó.
Nhìn chung, thanh toán séc là thể thức đơn giản, thuận tiện được sử dụng
rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Công ước Séc quốc tế Giơ-ne-vơ năm 1931 đã
được một số nước thông qua cho đến nay vẫn được xem là luật điều chỉnh các
quan hệ liên quan đến việc phát hành và sử dụng séc. Tuy nhiên, trong thực tế, sử
dụng séc không phải tuyệt đối an toàn, đã có xuất hiện séc giả. Do vậy, kỹ thuật
thanh toán séc không ngừng được hoàn thiện trên mọi phương diện.
Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu (UNT):
UNT là chứng từ đòi tiền do người bán lập và uỷ nhiệm cho NH phục vụ
mình đòi tiền người mua hay người nhận cung ứng dịch vụ trên cơ sở hàng hoá
hay đơn vị đã cung ứng. Ngân hàng phục vụ người bán không chịu trách nhiệm về
việc người mua có thanh toán hay không. Chính vì thế, đối với nghiệp vụ này, NH
phải kết hợp nghiệp vụ bảng, ghi nhập sổ theo dõi UNT gửi đi để theo dõi tình
hình thanh toán, trả tiền của người mua nếu người mua có tài khoản tiền gửi tại
NH khác.
Trang 12
Đối tượng áp dụng: UNT được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá khi người
bán cung cấp cho người mua hoặc tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, tiền nhà
đất...
Điều kiện áp dụng: Hai bên mua bán phải thống nhất với nhau dùng hình thức
UNT với những điều kiện cụ thể ghi trên hợp đồng, đồng thời, phải thông báo bằng
văn bản cho NH phục vụ bên chi trả biết để làm căn cứ thực hiện thanh toán.
Phạm vi áp dụng: Hình thức thanh toán này được áp dụng rộng rãi trong quan
hệ thanh toán nội địa và thanh toán quốc tế đối với mọi đối tượng khách hàng dù
họ mở tài khoản tại bất cứ đơn vị thanh toán nào. Áp dụng uỷ nhiệm thu rất có lợi
trong trường hợp thu hộ phí các dịch vụ công cộng, giúp các đơn vị cung ứng dịch
vụ công cộng giảm chi phí nhân viên phải đến từng nhà để thu tiền.
Tuy nhiên, nó vẫn còn hạn chế vì UNT do người bán lập chứng từ và là xuất
phát điểm trong quy trình thanh toán, mà nguyên tắc hạch toán là ghi nợ trước có
sau. Mặc dù an toàn cho các NH tham gia quy trình thanh toán nhưng quy trình
luân chuyển chứng từ còn vòng vèo, tốc độ thanh toán chậm.
Hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi (UNC):
UNC là lệnh của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của NHNN uỷ
quyền cho NH phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản tiền gửi của
mình để trả cho người thụ hưởng có tài khoản cùng NH hay khác NH, trong cùng
hệ thống hoặc khác hệ thống.
Đối tượng áp dụng: UNC được dùng chủ yếu là để thanh toán tiền hàng hoá,
công nợ dịch vụ theo đó người