Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền 
kinh tế. Và hoạt động cho vay là một trong những hoạt động quan trọng nhất 
không những đối với Ngân hàng, mà còn là còn đối với các doanh nghiệp , tổ 
chức, cá nhân, hộ gia đình. 
Trong giai đoạn kinh tế đang phát triển như hiện nay. Nếu các doanh 
nghiệp không đầu tư vốn để mở rộng sản xuất thì khó mà tồn tại lâu dài. Các 
cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức thiếu vốn nếu không vay vốn tạo điều kiện 
phục vụ các nhu cầu cần thiết cho công việc, cuộc sống của m ình thì sẽ gặp 
nhiều khó khăn. Với Ngân hàng, hoạt động cho vay là hoạt động đem lại phần 
lớn thu nhập cho Ngân hàng, cùng với nhiều vai trò khác thì hoạt động cho 
vay là một trong những hoạt động có tính chiến lược của Ngân hàng .
Trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều Ngân hàng cùng tồn tại và phát 
triển, tạo nên sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng. Trong hoạt động cho vay của 
Ngân hàng tuy đã đạt được những thành tựu, nhưng còn gặp nhiều khó khăn. 
Do đó vấn đề “Tăng cường hoạt động cho vay” nhằm nâng cao, mở rộng hoạt 
động cho vay của Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng hàng có thể tăng cường 
hoạt động kinh doanh của mình, hội nhập với nền tài chính trong khu vực là 
rất cầnthiết.
Qua quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Tỉnh Hưng 
Yên, em đã có thời gian thực tế, tìm hiểu về các hoạt động của Ngân hàng, đặc 
biệt là hoạt động cho vay. Kết hợp với những kiến thức đã được học, em đã 
lựa chọn đề tài “Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng 
Công Thương Tỉnh Hưng Yên” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
ChươngI: Hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại 
ChươngII: thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên
ChươngIII: Các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công 
thương t ỉnh Hưng Yên
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 98 trang
98 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay tại ngân hàng công thương tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 
Đề tài: Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân 
hàng Công Thương Tỉnh Hưng Yên 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
lời nói đầu 
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền 
kinh tế. Và hoạt động cho vay là một trong những hoạt động quan trọng nhất 
không những đối với Ngân hàng, mà còn là còn đối với các doanh nghiệp , tổ 
chức, cá nhân, hộ gia đình. 
Trong giai đoạn kinh tế đang phát triển như hiện nay. Nếu các doanh 
nghiệp không đầu tư vốn để mở rộng sản xuất thì khó mà tồn tại lâu dài. Các 
cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức thiếu vốn nếu không vay vốn tạo điều kiện 
phục vụ các nhu cầu cần thiết cho công việc, cuộc sống của mình thì sẽ gặp 
nhiều khó khăn. Với Ngân hàng, hoạt động cho vay là hoạt động đem lại phần 
lớn thu nhập cho Ngân hàng, cùng với nhiều vai trò khác thì hoạt động cho 
vay là một trong những hoạt động có tính chiến lược của Ngân hàng . 
Trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều Ngân hàng cùng tồn tại và phát 
triển, tạo nên sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng. Trong hoạt động cho vay của 
Ngân hàng tuy đã đạt được những thành tựu, nhưng còn gặp nhiều khó khăn. 
Do đó vấn đề “Tăng cường hoạt động cho vay” nhằm nâng cao, mở rộng hoạt 
động cho vay của Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng hàng có thể tăng cường 
hoạt động kinh doanh của mình, hội nhập với nền tài chính trong khu vực là 
rất cần thiết. 
Qua quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Tỉnh Hưng 
Yên, em đã có thời gian thực tế, tìm hiểu về các hoạt động của Ngân hàng, đặc 
biệt là hoạt động cho vay. Kết hợp với những kiến thức đã được học, em đã 
lựa chọn đề tài “Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng 
Công Thương Tỉnh Hưng Yên” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. 
Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương: 
chươngI: Hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
chươngII: thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên 
ChươngIII: Các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công 
thương tỉnh Hưng Yên 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
Chương I 
hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 
I. các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại 
 1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại 
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền 
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền 
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương 
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng 
các Ngân hàng. 
Ngân hàng thương mại có một quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến 
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nhiệm vụ hoạt động 
của nó rất đơn giản nhưng càng về sau theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá, 
tổ chức của các Ngân hàng cũng như nhiệm vụ của nó ngày càng phát triển và 
hoàn thiện hơn. 
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động 
chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tiếp nhận các khoản tiền nhàn rỗi trong 
nền kinh tế với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực 
hiện các nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán và cung cấp các 
dịch vụ cho doanh nghiệp, tư nhân, hộ gia đình, các nhà xuất nhập khẩu. 
Đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng Ngân hàng thương mại là một 
loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. 
Ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau: 
Ngân hàng thương mại giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt 
động vì mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức đặc biệt vì đối tượng kinh 
doanh là tiền tệ, hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu được thực hiện chủ 
yếu bằng cách thu hút vốn tiền tệ trong xã hội để cho vay. 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh: Nguồn vốn phần lớn là tiền 
gửi của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của Ngân hàng 
thương mại là không sử dụng nguồn vốn sở hữu vào trong các hoạt động kinh 
doanh của mình như cho vay, mua bán chứng khoán. Hơn nữa nguồn vốn sở 
hữu của Ngân hàng thương mại chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn 
vốn của Ngân hàng thương mại. Trong khi đó các loại hình kinh tế khác lại sử 
dụng chủ yếu nguồn vồn sở hữu vào các hoạt động kinh doanh. Sự khác biệt 
của Ngân hàng thương mại với các định chế tài chính khác là Ngân hàng 
thương mại có quyền huy động tiền gửi trong nền kinh tế mỗi khi cân vốn để 
tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Công ty tài chính thì hoạt động 
chủ yếu bằng nguồn vốn sở hữu của mình, nếu thiếu các công ty tài chính có 
thể vay trên thị trường các công ty cổ phần, muốn tăng nguồn vốn huy động 
của mình thì có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Không có một định 
chế tài chính nào ngoài Ngân hàng thương mại có thể nhận tiền gửi từ các tổ 
chức cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế. 
Khách hàng của Ngân hàng thương mại là những người đóng vai trò hai 
mặt đối với Ngân hàng. Thứ nhất, họ là những người cung cấp các điều kiện 
để Ngân hàng hoạt động. Họ là những người tạo nguồn vốn cho Ngân hàng. 
Thứ hai, họ là những khách hàng sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng, như 
cho đi vay, sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng. Phần lớn, những khách hàng 
này, lại sử dụng chính những đồng tiền mà họ đã gửi vào. Vì vậy, khách hàng 
chính là những người cung cấp đầu vào cho Ngân hàng và họ cũng chính là 
người sử dụng sản phẩm đầu ra của Ngân hàng. 
Ngân hàng là một đơn vị doanh nghiệp theo cách phân nghành kinh tế. 
2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại 
2.1. Hoạt động huy động vốn 
2.1.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại gồm 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
2.1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu 
Để bắt đầu hoạt động của Ngân hàng chủ Ngân hàng phải có một lượng 
vốn nhất định. 
 Nguồn vốn hình thành ban đầu: tuỳ theo tính chất của mỗi Ngân hàng 
mà nguồn vốn hình thành vốn ban đầu khác nhau: do ngân sách nhà nước cấp 
,do các bên liên doanh đóng góp, hoặc vốn thuộc sở hữu tư nhân 
 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: nguồn từ lợi nhuận, phát 
hành thêm cổ phần,góp thêm cấp thêm. 
 Các quỹ 
2.1.1.2. nguồn tiền gửi 
 Tiền gửi thanh toán: là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào 
Ngân hàng để nhờ Ngân hàng giữ hộ, thanh toán. 
 Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: nhiều khoản 
thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một 
thời gian xác định. 
 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu 
nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân 
hàng, họ đều có thể gửi tài khoản nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và 
sinh lời với các tài khoản. 
 Tiền gửi của các Ngân hàng khác 
2.1.1.3. Nguồn đi vay và các nghiệp vụ đi vay của Ngân hàng thương 
mại 
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại tuy 
nhiên, khi cần Ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm. 
 Vay Ngân hàng nhà nước (vay Ngân hàng trung ương): đây là các 
khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả. Trong trường hợp 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), Ngân hàng thương mại 
thường vay Ngân hàng nhà nước. 
 Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn Ngân hàng vay mượn 
lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. 
 Vay trên thị trường vốn: như phát hành các giấy nợ 
 Các 
nguồn khác: nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán 
2.1.2. Hoạt động huy động vốn 
Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư 
và cung cấp các dịch vụ khác. Hoạt động vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho 
Ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng 
hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là hoạt động 
thường xuyên của Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kì 
nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối 
tượng huy động của Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ 
chức kinh tế, dân cư. Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao nhất 
trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng. 
Các Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức 
kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền của các Ngân hàng khác. 
Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc 
gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi. Thông thường họ gửi tiền vào Ngân hàng, vì 
đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có 
lãi và đây là cách ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng 
mong muốn được sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho 
người thân ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài 
sản có giá trị lớn... Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
Ngân hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi 
nhất định ở Ngân hàng, coi như một khoản đảm bảo. 
Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền 
gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay, từ 
đó Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập 
lớn hơn. 
Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi 
tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà 
Ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm 
thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài 
trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn 
nhất mà Ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn 
rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân 
hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì 
được hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán. 
Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào 
kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền 
kinh tế. Ngoài ra hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng cũng góp phần tiết 
kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát triển nếu dân 
chúng có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của Ngân 
hàng thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của người 
dân. 
Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn 
phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ 
thuộc vào quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài 
sản của Ngân hàng. 
Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ 
của Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu 
nguồn vốn quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn 
phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối 
với mỗi Ngân hàng . 
2.2. Hoạt động sử dụng vốn: 
Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì 
các Ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những 
nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, 
đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và 
hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài 
trợ lại cho nền kinh tế dưới dạng các thành phần kinh tế vay, hoặc Ngân hàng 
đầu tư trực tiếp, Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê 
tài sản,Ngân hàng gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- 
những tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , 
Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng 
và có thể bán đi để ra tăng ngân quỹ khi cần thiết... Những đối tượng tài trợ 
không chỉ có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương 
mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng, thậm chí Chính phủ cũng được Ngân 
hàng tài trợ dưới những hình thức : Ngân hàng thương mại mua tín phiếu kho 
bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt 
động cho vay, đã giúp Ngân hàng có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát 
triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho vay, Ngân hàng 
thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung ứng. Tuy 
nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro nên 
Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một 
cách chặt chẽ. 
Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất 
cho nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh 
doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất 
thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, 
chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư . 
Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân hàng thương mại 
ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và 
đa dạng. Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu 
thế giới, cho vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay 
ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho 
vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ 
thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu 
như tình hình tăng trưởng, lạm phát,...) 
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô 
và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. 
Phải sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới 
quan tâm mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành 
công nghiệp. So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao 
hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác 
định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà 
Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì trong hoạt động đầu tư , Ngân hàng được 
lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình. 
Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào 
thị trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng thương 
mại có thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng 
khoán hay đóng vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm 
lời cho chính Ngân hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua 
uỷ thác của khách hàng. 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
2.3. Ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian 
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử 
dụng vốn thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho 
khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi 
vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ 
hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về 
dịch vụ mà khách hàng cần. 
Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số 
lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian 
gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách 
hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản 
này từ tài khoản này đến tài khoản khác ở cùng một Ngân hàng hay ở hai 
Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, 
dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh 
nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động. Đây là những khoản chi thường 
xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời 
gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này, cung cấp các phương tiện 
thanh toán không dùng tiền mặt. 
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát 
triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện 
nghiệp vụ trung gian mang tính dịch sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản 
thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân 
hàng phát triển toàn diện.Tại các nước phát triển, các Ngân hàng thương mại 
cạnh tranh với nhau bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ 
mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ 
mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển, 
thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận các 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động dịch 
vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro. 
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các 
dịch vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba 
dịch vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo 
uy tín cho Ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho 
vay có hiệu quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, 
đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt vai 
trò chung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt 
động của Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của 
các Ngân hàng thương mại . 
II. Vai trò của hoạt động cho vay 
Hoạt động cho vay là một phần của hoạt động tín dụng của Ngân hàng. 
Hoạt động này ra đời từ buổi đầu của Ngân hàng và đã trở thành một trong hai 
nhiệm vụ cơ bản của Ngân hàng. Đây cũng là ngiệp vụ kinh doanh chủ yếu 
của Ngân hàng bởi vì chỉ có lãi cho vay mới bù đắp lại các chi phí phát sinh 
của Ngân hàng như chi phí trung gian, chi phí quản lý, chi phí dự trữ... thực tế 
trong quá trình phát triển của Ngân hàng cho thấy lợi nhuận từ các khoản cho 
vay chiếm phần lớn thu nhập của Ngân hàng, lượng tiền gửi tăng lên đáng kể, 
các hình thức cho vay cũng phong phú. 
Cho vay là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Khi định 
nghĩa về hoạt động cho vay, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng nói tóm 
lại, có thể định nghĩa hoạt động cho vay của Ngân hàng là hoạt động cung ứng 
tiền cho tất cả các khách hàng có nhu cầu về tiền để phục vụ cho mục đích sản 
xuất kinh doanh hay tiêu dùng. 
Và hoạt động cho vay với vị trí khá quan trọng của mình có vai trò như 
sau: 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 
Vò ThÞ Thu HiÒn- TCC 41A 55 
*Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng và thúc 
đẩy các hoạt động khác của Ngân hàng: 
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động lớn của Ngân hàng 
doanh thu từ hoạt động này thường chiếm 70% doanh thu, ở các nước phát 
triển, hay đến 90% doanh thu của Ngân hàng, ở các nước đang phát triển. 
 Hiện nay 80% doanh thu của các Ngân hàng thương mại là từ hoạt động 
tín dụng, mà hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn. 
Mặt khác, nhờ có hoạt động cho vay, mà các đơn vị kinh tế có thể vay 
của Ngân hàng để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận thu 
được không những doanh nghiệp đủ tiền trả cho Ngân hàng mà còn có tiền gửi 
vào Ngân hàng, nghĩa là làm tăng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. 
Mặt khác khi sản xuất kinh doanh phát triển, xã hội phát triển thì các hoạt 
động dịch vụ của Ngân hàng cũng phát triển. 
* Hoạt động cho vay góp phần điều hoà cung- c